60 Năm Trước, Bác Hồ Bắt Đầu Viết Di Chúc: Tình Yêu Thương và Tầm Nhìn Vượt Thời Đại

60 năm trước, Bác Hồ bắt đầu viết Di chúc

60 năm đã trôi qua kể từ khi Bác Hồ bắt đầu viết Di chúc, một văn bản quan trọng mang tên “Mấy lời để lại”. Những dòng chữ ấy không chỉ là lời dặn dò cuối đời mà còn là sự kết tinh của tình yêu thương và tầm nhìn vượt thời đại của Người. Từ những ngày đầu tiên, Di chúc đã trở thành kim chỉ nam, soi rọi và dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên con đường xây dựng và phát triển đất nước.

Bác Dành Thời Gian và Tâm Huyết Để Viết Di Chúc

Bác Hồ bắt đầu viết Di chúc vào tháng 5 năm 1965, tại tầng 2 Nhà sàn trong Phủ Chủ tịch. Theo hồi ký của đồng chí Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác, vào đúng 9h sáng, Bác ngồi chăm chú viết những dòng đầu tiên của tài liệu “Tuyệt đối bí mật”. Phòng làm việc yên tĩnh, gió mát dịu và hương thơm của hoa vườn thoang thoảng, tạo nên không gian trang trọng và thiêng liêng.

Bác Hồ làm việc tại tầng 2 Nhà sàn trong Phủ Chủ tịch, tháng 4/1960Bác Hồ làm việc tại tầng 2 Nhà sàn trong Phủ Chủ tịch, tháng 4/1960

Trong phần mở đầu bản Di chúc năm 1965, Bác viết: “Năm nay, tôi đã 75 tuổi. Tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khỏe. Tuy vậy, tôi cũng là lớp người “xưa nay hiếm”. Ai đoán biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy năm, mấy tháng nữa. Vì vậy, tôi để lại mấy lời này… phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác…”. Bác không nói nhiều về mình mà dành trọn tâm huyết để nói về Đảng, về dân, về thế hệ cách mạng kế cận và tương lai của Tổ quốc.

Trong những ngày tiếp theo của tháng 5 năm ấy và các năm sau, Bác tiếp tục viết, sửa chữa và bổ sung Di chúc. Sau khi Bác mất vào ngày 9/9/1969, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã công bố bản Di chúc hoàn chỉnh trong Lễ truy điệu Người. Đến năm 1989, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) đã công bố đầy đủ các bản thảo Di chúc của Bác.

Kết Tinh Tình Yêu Thương và Tầm Nhìn Vượt Thời Đại của Bác

Nội dung Di chúc ngắn gọn nhưng sâu sắc, thể hiện tâm nguyện, tình cảm, niềm tin và trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Tổ quốc và Nhân dân. Bác dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày thống nhất đất nước: “cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.

Bác cũng chỉ dẫn về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ gìn mối “đoàn kết trong Đảng”, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng và nêu cao tinh thần trách nhiệm, phục vụ nhân dân. Bác đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ chiến lược là công tác chỉnh đốn Đảng.

Bác còn dặn dò về việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên””.

Bác Hồ luôn nghĩ đến người dân của mọi tầng lớp xã hội. Đối với Nhân dân lao động, Bác căn dặn: “Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Bác đặc biệt quan tâm đến những nhóm người yếu thế, từ những người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc đến phụ nữ và những nạn nhân của xã hội cũ.

Bác cũng phác thảo lý luận về sự nghiệp đổi mới với những chỉ dẫn quan trọng về quản lý xã hội, từ đào tạo nguồn nhân lực, sửa đổi chế độ giáo dục, đến khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế, chính sách miễn thuế nông nghiệp cho nông dân và chính sách xã hội, công bằng xã hội.

Ánh Sáng Soi Đường Trong Hành Trình Đổi Mới và Phát Triển Đất Nước

Trải qua 60 năm, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là những lời căn dặn cuối đời mà đã trở thành kim chỉ nam soi đường cho toàn Đảng, toàn dân trên con đường dựng xây đất nước. Từ thời kỳ đấu tranh thống nhất đất nước đến thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển, Di chúc luôn là cội nguồn tinh thần, ngọn đuốc dẫn lối cho Đảng và Nhân dân.

Sau ngày thống nhất đất nước (1975), những chỉ dẫn trong Di chúc về xây dựng Đảng và chăm lo đời sống Nhân dân đã được cụ thể hóa trong các nghị quyết, chủ trương của Đảng. Đặc biệt, tinh thần “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” đã trở thành phương châm cốt lõi để Đảng không ngừng chỉnh đốn và tự hoàn thiện.

Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, những lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, văn hóa và nâng cao đời sống Nhân dân lại một lần nữa bừng sáng, trở thành nền tảng cho các quyết sách của Đảng. Các chương trình xóa đói giảm nghèo, chăm sóc người có công, nâng cao vai trò phụ nữ và bồi đắp thế hệ trẻ đều là sự hiện thực hóa những điều Người căn dặn.

Trong công cuộc hội nhập quốc tế, Di chúc tiếp tục khơi nguồn cảm hứng về tinh thần độc lập, tự chủ, song hành với hợp tác và hữu nghị. Những điều Bác viết về việc “phải góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” đã trở thành kim chỉ nam để Việt Nam khẳng định vị thế và uy tín trên trường quốc tế.

Thực tiễn hơn nửa thế kỷ qua cho thấy, giá trị trường tồn của Di chúc không chỉ ở tầm chiến lược mà còn thấm đẫm chất nhân văn, gợi mở cách tiếp cận mới cho những vấn đề hiện đại như phát triển bền vững, bảo vệ quyền con người, nâng cao chất lượng cuộc sống và giáo dục công dân toàn diện.

60 năm đã trôi qua, nhưng ánh sáng từ Di chúc vẫn soi đường, tiếp sức cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau. Đó là ánh sáng của lòng yêu nước thương dân, của đạo lý làm người, của khát vọng hòa bình và phát triển, của quyết tâm xây dựng một đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như lời Bác dặn. Thực hiện Di chúc của Bác Hồ hôm nay không chỉ là hành động tri ân mà còn là mệnh lệnh từ trái tim, để mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam đều chung tay viết tiếp khúc tráng ca “độc lập – tự do – hạnh phúc” mà Người đã khởi xướng và nỗ lực thực hiện bằng cả cuộc đời.


(1) Vũ Kỳ – Càng nhớ Bác Hồ, Nxb Thanh niên. Hà Nội. 1999. Tr 130
(2) Trích bản thảo Di chúc Hồ Chí Minh năm 1965
(3) – (11) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.621-624

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *