GS Tôn Thất Tùng là Anh hùng Lao động, danh nhân y học, một trí thức tiêu biểu của thời đại Hồ Chí Minh.
Giáo sư luôn chăm lo cho thế hệ thầy thuốc trẻ, là người thầy rất nghiêm khắc, tỉ mỉ, chu đáo trong giảng dạy, công bằng, tế nhị trong ứng xử.
GS Tôn Thất Tùng thường nói với mọi người: “Một người thầy thuốc càng chịu khó học hỏi, thì càng giảm được gánh nặng đau khổ cho bệnh nhân”.
Năm 1939, bác sĩ Tôn Thất Tùng bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp y khoa về phương pháp phân chia mạch máu gan, còn gọi là “mổ gan khô”, và được Đại học Tổng hợp Paris trao huy chương bạc (Ảnh: Tư liệu).
Cha đẻ của phương pháp mổ gan khô luôn yêu cầu mọi người làm việc với tính trung thực và khách quan tuyệt đối, đồng thời chỉ ra những thiếu sót trong chẩn đoán và điều trị của các bác sĩ trẻ.
Nhờ sự kế thừa và phát triển từ những giá trị thầy truyền dạy, ngành Y tế Việt Nam đã thực hiện thành công các ca phẫu thuật phức tạp như mổ gan, mổ tim, ghép thận, ghép tim, ghép gan, phẫu thuật nội soi…
Một trong số những học trò xuất sắc của GS Tôn Thất Tùng là GS Đặng Hanh Đệ, người được mệnh danh là có “đôi tay vàng” trong phẫu thuật tim mạch Việt Nam.
Ở tuổi 89, GS Đặng Hanh Đệ vẫn giữ được sự minh mẫn và sức khỏe tốt (Ảnh: Hùng Anh).
Người học trò Đặng Hanh Đệ gắn bó làm việc bên GS Tôn Thất Tùng từ thập niên 1960 đến năm 1982. Sau một biến cố lớn, chính GS Tùng đã trao lại dao mổ cho người ông tin tưởng nhất.
Trong suốt thời gian làm nghề, GS Đặng Hanh Đệ được biết với tính cách điềm đạm, tận tụy từng giữ vai trò Chủ nhiệm phẫu thuật Khoa tim mạch, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cứu chữa những trái tim “lỗi nhịp” khỏi lằn ranh sinh tử.
Ở tuổi 89, GS Đệ vẫn minh mẫn, tinh anh. Trò chuyện với phóng viên Dân trí, ông nói chậm rãi mà dứt khoát, mỗi câu chữ đều nhẹ nhàng xen lẫn chút xúc động khi nhắc về người thầy đáng kính.
“Thầy dạy bằng kinh nghiệm xương máu”
Thưa GS Đặng Hanh Đệ, đã hơn nửa thế kỷ kể từ lần đầu tiên ông gặp GS Tôn Thất Tùng, người thầy đáng kính của mình. Điều gì về thầy đã để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong ký ức của ông?
– Khi nghĩ về GS Tôn Thất Tùng, thầy không phải là “thầy giáo” theo nghĩa bảng phấn thông thường, mà là người trực tiếp truyền nghề trong phòng mổ.
Lần đầu tôi gặp thầy, lúc đó nền y học trong nước vẫn còn thiếu thốn kiến thức chuyên môn, tài liệu ít ỏi, máy móc thì đơn giản và phẫu thuật, đặc biệt là phẫu thuật tim tại Việt Nam vẫn là một lĩnh vực hoàn toàn mới.
Thầy Tùng luôn đặt ra những yêu cầu khắt khe với học trò, buộc chúng tôi phải nỗ lực không ngừng, thầy không chịu được những người làm việc hời hợt, kiểu “sáng cắp ô đi, chiều cắp về”.
Khi tôi hay các đồng nghiệp làm sai hoặc thao tác chưa chuẩn, thầy mắng thẳng, thậm chí dùng dụng cụ mổ gõ lên mu bàn tay chúng tôi để cảnh tỉnh nhưng chẳng ai dám phản ứng.
Tôi vẫn nhớ một kỷ niệm không thể quên trong ca mổ tim bẩm sinh năm 1972, khi máu phun ra dữ dội, tràn kín lồng ngực bệnh nhân, khiến mọi thứ trước mắt gần như mờ lòa.
Ca mổ kết thúc mà bệnh nhân không qua khỏi, thầy cởi găng tay, bước ra ngoài, ngồi gục đầu trên bậc thang cuối phòng mổ.
Tôi bước ra sau, nhìn vào đôi mắt thầy, thường tinh anh, sắc sảo lúc đó thật buồn, nhưng thầy vẫn nói với tôi: “Thôi, từ nay tôi không mổ tim nữa, anh làm đi.”
Khoảnh khắc ấy in sâu trong tôi, thầy đã chịu đựng quá nhiều và nhận ra mình đã đến giới hạn.
Nhưng thầy không rút lui tư tưởng hay trách nhiệm, thay vào đó, thầy chuyển sang vai trò người hướng dẫn, dìu dắt lớp trẻ thực hiện công việc mà một mình thầy không thể tiếp tục.
Qua lời kể của ông, GS Tôn Thất Tùng hiện lên là một người thầy rất nghiêm khắc. Ông có thể chia sẻ cụ thể cách thầy dạy dỗ các học trò và cảm nhận sâu sắc của ông về phong cách dạy này?
– Thời còn là sinh viên, nghe danh thầy đã khiến chúng tôi sợ khiến y, bác sĩ trẻ thường đứng ngoài phòng mổ, khó có cơ hội tiếp cận thầy.
Chỉ khi tôi trưởng thành và trở thành bác sĩ, mới có cơ hội thực sự phụ mổ cho thầy. Thầy quan sát rất kỹ, không dễ gì tin tưởng ngay, nhưng khi thầy đã trao niềm tin, ông giao cho tôi cả những ca mổ khó nhất.
GS Đệ kể lại có những ca mổ, chỉ cần phụ tá thao tác sai quy trình, thầy Tùng lập tức quát lớn, thậm chí ném cả dụng cụ phẫu thuật xuống bàn. Bản thân ông, dù là người phụ mổ trực tiếp, cũng nhiều lần bị thầy nghiêm khắc nhắc nhở khi thao tác chưa chuẩn xác (Ảnh: Hùng Anh).
Nhiều học trò kể rằng họ sợ thầy, nhưng không ai ghét bởi mỗi lời quát, mỗi cơn nóng giận đều xuất phát từ mạng sống của bệnh nhân.
Điều quý giá nhất là thầy không mắng theo lý thuyết sách vở, thầy dạy bằng kinh nghiệm “xương máu”, kể từng ca bệnh đã tử vong, từng phút giây căng thẳng trên bàn mổ, để học trò thấm thía rằng nghề y là nghề mang trách nhiệm cao cả và nghiêm trọng.
Nhờ sự nghiêm túc đó, tôi học cách hành nghề không chỉ bằng tay nghề mà còn bằng cả trái tim, đặt con người lên trước hết, giữ mạng sống của bệnh nhân luôn là ưu tiên số một.
Chính những bài học này đã định hình tư duy, cách hành xử và lương tâm nghề nghiệp của tôi suốt đời.
“Khi Hà Nội bị ném bom, thầy tặng tôi chiếc mũ sắt Đông Đức”
Với cá nhân ông, di sản chuyên môn quan trọng nhất mà thầy Tôn Thất Tùng đã để lại là gì?
– Thầy Tùng không chỉ mang kỹ thuật hiện đại về Việt Nam mà còn truyền nghề theo cách rất thực tiễn, không dạy qua giáo án khô khan mà dạy trực tiếp qua thực tế mổ.
Tôi còn nhớ, sau mỗi ca, thầy cởi áo, gọi chúng tôi lại, phân tích tỉ mỉ từng bước, từng khó khăn, từng quyết định mà thầy đã đưa ra, đó thực sự là những bài học không có trên sách vở.
Một trong những cột mốc quan trọng mà tôi luôn khắc ghi là năm 1958, thầy thực hiện những ca mổ tim đầu tiên ở Việt Nam sau thời gian học tập ở Ấn Độ.
Những kỹ thuật như mở tim, tách van hẹp gần như chưa ai làm trước đó.
Ngoài phẫu thuật tim, thầy còn nghiên cứu phẫu thuật gan, phân chia mạch máu gan và phát triển “phương pháp cắt gan có kế hoạch” (còn gọi là phương pháp gan khô), giúp giảm chảy máu khi mổ.
Nhờ những bài học và cách truyền nghề đó, tôi và nhiều đồng nghiệp đã được thầy định hình không chỉ về kỹ thuật, mà còn về tư duy thực tiễn, lòng nhân ái và tinh thần trách nhiệm với mạng sống con người.
Bên cạnh vai trò người thầy trong nghề, GS Tôn Thất Tùng còn đồng hành và hỗ trợ ông trong đời sống sinh hoạt?
– Gia đình tôi từng có thời gian 4 người chen chúc trong căn phòng vỏn vẹn 20m2.
Khi con bị ốm, hiệu trưởng thương hoàn cảnh gia đình nên khuyên tôi làm đơn xin nhà, tôi thực hiện và gửi cho thầy xem.
Chỉ với vài dòng thầy viết gửi Bộ trưởng, 6 tháng sau, gia đình tôi được cấp căn hộ. Thầy còn giúp vợ tôi vào làm ở bệnh viện Việt Đức, để thuận tiện cho gia đình.
Nhắc đến những lần được GS Tôn Thất Tùng giúp đỡ, chỉ bảo, GS Đặng Hanh Đệ không kìm được nước mắt vì xúc động (Ảnh: Hùng Anh).
Trong thời điểm chiến tranh loạn lạc, khi Hà Nội bị ném bom, thầy tặng tôi một chiếc mũ sắt Đông Đức và dặn: “Đội vào mà đi, đạn lạc có thể rơi vào đầu”, tôi đội cái mũ ấy trong suốt những năm bom rơi.
Những chuyện đó khiến tôi kính trọng thầy không chỉ như một bậc thầy y khoa mà còn như một người cha, một tình nghĩa thầy trò vượt lên trên mọi khuôn khổ chuyên môn.
“Tôi học từ thầy cách truyền nghề thực tiễn”
Trong quá trình truyền dạy, GS Tôn Thất Tùng có những nguyên tắc nghề nghiệp nào mà đến nay ông vẫn giữ gìn và truyền lại cho thế hệ sau?
– Nguyên tắc thứ nhất là “làm tròn nhiệm vụ”. Khi thầy giao việc, tôi phải hoàn thành đến nơi đến chốn, nếu nhận mà làm cẩu thả, thầy lập tức không chấp nhận.
Nguyên tắc này rèn luyện cho tôi sự tận tâm, tính kỷ luật và trách nhiệm tuyệt đối với công việc, bởi trong y học, mỗi sai sót đều có thể cướp đi mạng sống con người.
Nguyên tắc tiếp theo chính là trách nhiệm nghề nghiệp gắn liền với lòng trắc ẩn.
Kỹ thuật có thể học qua sách vở, nhưng tinh thần nghề, hiểu được nỗi sợ hãi, hoàn cảnh và mong muốn của bệnh nhân phải thấm vào từng hành động, từng quyết định.
Tôi luôn truyền lại cho học trò rằng, kỹ thuật quan trọng, nhưng thái độ, cách suy nghĩ và cách ứng xử với bệnh nhân còn quan trọng hơn.
Ngoài ra, tôi còn học được từ thầy cách truyền nghề thực tiễn. Thầy không chỉ lặp lại thao tác, mà giải thích logic, lý do, và kịch bản xử lý khi gặp biến cố.
Mỗi ca mổ trở thành một bài học sống động, một trải nghiệm thực tế giúp tôi thấm thía tinh thần nghề y, nghiêm túc và cẩn trọng.
Những nguyên tắc ấy không chỉ giúp tôi trở thành bác sĩ, mà còn hun đúc phẩm cách, trách nhiệm và lòng nhân ái trong nghề.
Là học trò thân thiết và hiểu rõ GS Tôn Thất Tùng, ông thấy còn khía cạnh nào trong sự nghiệp của thầy mà nhiều người chưa thấu hiểu hoặc chưa kịp nhìn nhận?
– Người ta thường chỉ nhìn thấy các ca mổ thành công, các kỹ thuật mà thầy mang về Việt Nam, nhưng ít ai biết rằng thầy đã trải qua những thất bại đầy đau đớn và áp lực.
Những đêm thao thức, sự dằn vặt vì không cứu được bệnh nhân, cảm giác hụt hẫng khi mọi nỗ lực không đủ… tất cả đều là một phần của nghề mà người ngoài khó thấy.
Thầy đã dạy tôi rằng, thành công nhìn thấy chỉ là một phần, còn giá trị thực sự nằm ở cách chúng ta đối diện thất bại, rút ra bài học và không ngừng trau dồi để chữa bệnh bằng cả tay nghề lẫn tâm huyết.
Những điều ấy, với tôi, vẫn là di sản lớn nhất mà thầy để lại.
Xin cảm ơn GS về cuộc trò chuyện!
Source link: https://dantri.com.vn/suc-khoe/loi-day-xuong-mau-cua-gs-ton-that-tung-qua-ky-uc-nguoi-hoc-tro-ke-nghiep-20251117155042138.htm



