Tờ báo đặc biệt trong dòng chảy báo chí cách mạng
Câu đầu tiên khi nhắc đến báo Tiếng Dân (1927-1943), do cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) sáng lập, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế (cũ), khẳng định “đó là một trường hợp rất đặc biệt”.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa, tháng 10/1926, cụ Huỳnh Thúc Kháng và những người bạn đã gửi đơn đến Phủ Toàn quyền Đông Dương xin phép xuất bản một tờ báo, trụ sở đặt tại Đà Nẵng nhưng không được chấp nhận.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa (bên trái), nguyên Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế (Ảnh: Hải Lan).
Cùng năm, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã trúng cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ (đóng tại Huế) và được bầu làm Viện trưởng. Nhờ vai trò này, cụ Huỳnh tiếp tục gửi đơn xin phép xuất bản một tờ báo bằng chữ Quốc ngữ.
Đến ngày 12/2/1927, ông Pierre Pasquier, Toàn quyền Đông Dương đã chấp nhận nhưng yêu cầu cụ Huỳnh dời trụ sở báo ra Huế để Tòa Khâm sứ Trung Kỳ dễ dàng kiểm soát.
Ngày 10/8/1927, báo Tiếng Dân ra số báo đầu tiên, do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, ông Đào Duy Anh làm Thư ký tòa soạn, thương gia Trần Đình Phiên làm quản lý.
Sau này, tờ báo còn quy tụ được nhiều bậc tri thức và thanh niên có tư tưởng tiến bộ, yêu nước, như Nguyễn Quý Hương, Nguyễn Xương Thái, Trần Đình Phiên, Trần Đình Nam. Một số khác sau này trở thành những người cộng sản nổi tiếng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hải Triều, Nguyễn Chí Diểu,…
Theo tài liệu lịch sử, ban đầu Tiếng Dân phát hành 2 kỳ vào thứ tư và thứ bảy hằng tuần. Trong giai đoạn 1936-1939, thời kỳ vận động dân chủ, báo ra mỗi tuần 3 số vào các ngày thứ ba, thứ năm và thứ bảy. Từ đầu năm 1940 trở về sau, báo trở lại mỗi tuần 2 số như trước.
Về mặt hình thức, tờ báo thường có 2-6 trang, khổ rộng và dung lượng bài phong phú. Nội dung của một tờ báo gồm các phần bình luận tình hình trong nước, thế giới, chuyện đời, vịnh sử, tin tức cùng các bài thơ, văn tuyển chọn, thường là của Phan Bội Châu, Phan Tây Hồ, Bích Khê và nhiều cây bút tên tuổi khác.
Ảnh chụp cụ Huỳnh Thúc Kháng (cầm quạt ngồi giữa hàng phía trước) cùng những người làm báo Tiếng Dân trước trụ sở tòa soạn vào năm 1937 (Nguồn: Bảo tàng Đà Nẵng).
Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cho biết, khi chuẩn bị lập báo, cụ Huỳnh Thúc Kháng dự định đặt tên là Trung Thanh, vừa có nghĩa là tiếng nói ngay thẳng, vừa hàm ý tiếng nói của miền Trung. Tuy nhiên, sau khi tham khảo ý kiến cụ Phan Bội Châu, một chí sĩ yêu nước đang bị quản thúc tại Huế lúc bấy giờ, tờ báo chính thức mang tên Tiếng Dân.
Theo nhà nghiên cứu, báo Tiếng Dân ra đời trong thời kỳ đặc biệt, chỉ 2 năm sau khi tờ Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc (Chủ tịch Hồ Chí Minh) sáng lập. Thời kỳ đó, Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng là tờ báo cách mạng đầu tiên hoạt động công khai ngay giữa kinh đô Huế, nói tiếng nói độc lập với triều đình nhà Nguyễn và chế độ cai trị thực dân Pháp, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người dân.
“Không nói những điều người ta ép buộc nói”
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa, đương thời, cụ Huỳnh Thúc Kháng luôn tâm niệm, khi đã làm báo: “Nếu không có quyền nói tất cả những điều mình muốn nói, thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta ép buộc nói”.
Trong cuộc đời làm báo của mình, cụ Huỳnh Thúc Kháng tham gia viết rất nhiều bài trên các lĩnh vực dưới những bút danh khác nhau. Nhiều bài viết của cụ đăng trên báo Tiếng Dân đã công khai phê phán sự thối nát của thể chế thực dân phong kiến, chính quyền lấy sự nhân nghĩa, giả dối bên ngoài để che đậy những dã tâm bên trong.
Ảnh tư liệu liên quan đến cụ Huỳnh Thúc Kháng và tờ báo Tiếng Dân trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh thành phố Huế (Ảnh: Vi Thảo).
Với vai trò Chủ bút của cụ Huỳnh Thúc Kháng, Tiếng Dân đã đóng một vai trò chính trị quan trọng trong đời sống của nhân dân Trung Kỳ và những người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do.
Trong 16 năm hoạt động (1927-1943), báo Tiếng Dân đã xuất bản 1.766 số, trở thành một trong những tờ báo tiêu biểu của báo chí yêu nước cách mạng, phản ánh trung thực không khí, đời sống chính trị trong nửa đầu thế kỷ XX.
“Thời kỳ đó, chế độ thực dân Pháp kiểm duyệt vô cùng nghiêm ngặt, mỗi số báo, tòa soạn phải nộp một bản chữ Quốc ngữ và một bản dịch ra tiếng Pháp cho Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, ít nhất hai ngày trước khi công bố. Tuy nhiên, bằng bản lĩnh và trí tuệ, cụ Huỳnh đã đưa Tiếng Dân thành một tờ báo lớn có uy tín, bảo vệ quyền lợi của tầng lớp nhân dân, nói tiếng nói độc lập với Nam triều”, ông Nguyễn Xuân Hoa nhận định.
Một số của báo Tiếng Dân bằng chữ Quốc ngữ đã từng được xuất bản (Ảnh tư liệu do Hội Nhà báo thành phố Huế cung cấp).
Theo các nhà nghiên cứu, báo Tiếng Dân đã bộc lộ một phong cách riêng, sẵn sàng để trắng trang 1, 2, chỉ ghi một hàng chữ đậm “Tòa kiểm duyệt bỏ trắng một bài dài” đối với những bài bị kiểm duyệt, hoặc tòa soạn từ chối sửa chữa theo ý muốn của thực dân Pháp.
Đừng lãng quên di tích trụ sở báo Tiếng Dân
Trong bài nghiên cứu của mình, nhà báo Dương Phước Thu, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là thành phố Huế) đã chỉ rõ, ngay từ đầu, cụ Huỳnh Thúc Kháng chủ trương độc lập, tự chủ về tài chính, không lệ thuộc vào nhà cầm quyền Pháp hay một tổ chức nào của Nam triều.
Thời điểm đó, cụ Huỳnh và các cổ đông đã lập ra Công ty Huỳnh Thúc Kháng, trở thành công ty cổ phần sớm nhất ở Huế, trụ sở đặt tại 123 đường Đông Ba, phố Hàng Bè (nay là 193 Huỳnh Thúc Kháng, phường Đông Ba, thành phố Huế).
Công ty vừa là nơi in báo, sách, góp phần huy động vốn từ các cổ đông, để tờ báo Tiếng Dân có kinh phí hoạt động ổn định, xuất bản đều đặn, nội dung phong phú, thông tin trung thực, hấp dẫn.
Đặc biệt, nhờ tự chủ, tờ báo đã đi đúng theo tiêu chí đề ra là nói được tiếng nói của nhân dân, bênh vực quyền lợi của nhân dân, cũng như lên án nhiều ông quan “phụ mẫu” lúc bấy giờ.
Di tích Tòa Khâm sứ Trung Kỳ tại Huế, nơi đã chứng kiến rất nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc Việt Nam thời bị thực dân Pháp xâm lược (Ảnh: Vi Thảo).
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa, sau khi tờ báo Tiếng Dân dừng hoạt động vào năm 1943, nhà in tại số 123 đường Đông Ba tiếp tục hoạt động cho đến năm 1946, khi cụ Huỳnh Thúc Kháng ra miền Bắc làm Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi công ty chính thức giải thể vào năm 1946, cụ Huỳnh cho Hội đồng châu Quảng Nam sử dụng trụ sở báo Tiếng Dân làm ký túc xá cho những sinh viên Quảng Nam ra Huế học.
Sau năm 1975, trụ sở này được bố trí cho một số cán bộ Trường Đại học Y Huế (nay là Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế) và trở thành khu tập thể, gồm 6 hộ.
Năm 2018, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là thành phố Huế) đã xếp hạng trụ sở tòa soạn báo Tiếng Dân là di tích lịch sử cấp tỉnh và giao cho Bảo tàng Lịch sử thành phố quản lý.
Trụ sở báo Tiếng Dân ngày nay đã trở thành di tích cấp tỉnh nhưng xuống cấp, chưa được tu bổ, tôn tạo (Ảnh: Vi Thảo).
Ông Nguyễn Đức Lộc, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử thành phố Huế, cho biết, di tích này đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, nhất là hệ thống mái, tường chịu lực, cửa sổ, cầu thang gỗ,…
Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho người dân và du khách, hiện nay di tích phải đóng cửa. Bảo tàng cũng đã cắm mốc khoanh vùng bảo vệ, hạn chế việc xâm lấn xảy ra tại di tích.
Năm 2021, Bảo tàng Lịch sử thành phố Huế đã lập hồ sơ đề nghị phê duyệt chủ trương đầu tư dự án tu bổ, tôn tạo di tích, sử dụng nguồn vốn đầu tư công, giai đoạn 2022-2023. Tuy nhiên, đến nay dự án chưa được bố trí nguồn vốn để triển khai thực hiện.
Theo tư liệu của Bảo tàng Đà Nẵng, cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) sinh ra trong một gia đình Nho học ở làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Hà Đông (nay là Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam).
Ông là một trong “Tứ Hổ” Trung Kỳ nổi tiếng và từng tham gia các phong trào Duy Tân, kháng thuế, bị thực dân Pháp bắt, kết án tử hình sau đổi thành khổ sai chung thân, đày ra Côn Đảo, đến năm 1921 được trả tự do.
Năm 1926, Huỳnh Thúc Kháng trúng cử Dân biểu và được bầu làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ nhưng đã từ chức vào năm 1928.
Tháng 5/1946, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Pháp, cụ Huỳnh Thúc Kháng được giao chức vụ Quyền Chủ tịch nước (31/5/1946-20/10/1946).
Đầu năm 1947, do tuổi cao, sức yếu và lâm bệnh nặng, ông qua đời tại tỉnh Quảng Ngãi.
Source link: https://dantri.com.vn/xa-hoi/to-bao-dac-biet-tu-chu-ve-tai-chinh-cach-day-gan-mot-the-ky-20250610154757267.htm