TS Lương Bạch Vân quyết định trở về từ Paris làm “hạt bụi trong gió Việt Nam”

TS Lương Bạch Vân quyết định trở về từ Paris làm "hạt bụi trong gió Việt Nam"


Sau 18 năm ở Pháp, năm 1978 TS Lương Bạch Vân quyết định về nước, mang theo tấm bằng tiến sĩ hóa học cao phân tử, gia đình làm điểm tựa, 40 rương hành lý chứa tài liệu và khát vọng cống hiến cho Tổ quốc.

Trong cuộc phỏng vấn với Dân trí, bà khẳng định chưa từng hối hận khi giữ quốc tịch Việt Nam, từ bỏ sự nghiệp 18 năm ở Pháp để quay về. Hành trình TPHCM – Toulouse – Paris – TPHCM của bà như được định sẵn ngay từ đầu.

“Tôi sinh vài tháng sau ngày 2/9/1945. Suốt 80 năm, tôi trưởng thành cùng đất nước. Tôi hạnh phúc vì được sống và bước theo nhịp bước của dân tộc, là một hạt bụi bay trong chiều gió Tổ quốc”, TS Lương Bạch Vân bày tỏ.

Bà từng chia sẻ “ra đi là để trở về”. Điều gì đã giúp bà giữ ngọn lửa ấy suốt gần 20 năm xa quê hương, để rồi sẵn sàng trở về không chút do dự khi Tổ quốc cần?

– Mong muốn trở về nước đã ở trong tôi từ khi bắt đầu hành trình sang Pháp. Đương nhiên ngày đó tôi còn nhỏ, chỉ nhận thức được ở Việt Nam có quê hương, có bà nội, có người thân, bạn bè.

Nhưng cũng từ suy nghĩ này, tôi mới kiên quyết không nhập quốc tịch Pháp. Đây cũng là cơ duyên để tôi có thể tham gia trại hè của Hội Liên hiệp sinh viên tại Pháp vào mùa hè năm 1962, khi mới 16 tuổi.

Một kỷ niệm tôi nhớ mãi là vào năm đầu đại học, tôi có học với một giáo sư người Việt là ông Nguyễn Trọng Anh, giảng dạy môn Hóa Lượng tử tại đại học Orsay. Hôm đó, trước một hội trường hơn 500 sinh viên, ông nói: “Tôi rất khâm phục người Mỹ về kiến thức hóa học, nhưng tôi hoàn toàn không đồng tình với việc họ ném bom miền Bắc Việt Nam”.

Đó là lần đầu tiên tôi nghe một người có lập trường rõ ràng như vậy trong một môi trường học thuật phương Tây và thấy rất xúc động.

Ngay sau đó, một sinh viên thuộc Đảng Cộng sản Pháp mời tôi – người Việt duy nhất trong hội trường – phát biểu. Lần đầu đứng trước đám đông, giọng run run, tôi nói về đất nước yêu chuộng hòa bình đang hứng chịu bom đạn, về những gì mình biết qua Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam tại Pháp.

Chuyến đi dọc Tổ quốc lần đầu về nước năm 1976 càng thôi thúc tôi rõ hơn: Tổ quốc đang cần mình. Những khát vọng từng nuôi dưỡng trong phong trào sinh viên nay đã trở thành quyết tâm cụ thể: học để trở về đóng góp cho quê hương.

Để chuẩn bị cho ngày trở về, bà đã chuẩn bị hành trang ra sao để sẵn sàng mọi thứ cho hành trình được ấp ủ suốt 18 năm?

– Thật lòng, tôi chưa hình dung rõ công việc khi trở về sẽ thế nào. Sau chuyến đi xuyên Việt năm 1976, thấy hố bom chi chít, đất bạc màu, trồng rau cũng khó, tôi tự hỏi: mình sẽ làm được gì trong hoàn cảnh ấy?

Năm năm trước ngày về nước, tôi cố gắng tích lũy mọi thứ: gặp ai, nghe điều gì hữu ích đều ghi chép lại, để sau này khi cần mua hóa chất, tìm dụng cụ hay tổ chức công việc, mình đều có câu trả lời.

Ngày ấy, anh Bình giảng dạy đại học, tôi làm tại trung tâm Saclay (Pháp). Vợ chồng chi tiêu tằn tiện, gom góp được một khoản, chia ba phần: chuyên môn của anh, công việc của tôi và lo cho gia đình, ba con nhỏ. Chúng tôi lập danh sách tỉ mỉ, cái gì cần thì mua, xin hay nhờ bạn bè hỗ trợ.

Đó cũng là giai đoạn “chi tiêu sung sướng” nhất: cần gì cho công việc là mua, không tiếc. Bởi chúng tôi biết trong nước còn rất thiếu thốn, tìm một dụng cụ cơ bản cũng khó. Hai vợ chồng chuẩn bị đến 40 rương hành lý, đầy sách vở, tài liệu, dụng cụ khoa học đem về. Đến nay, nhiều món vẫn chưa dùng tới, thậm chí còn rương chưa mở.

Trong lần trở về này, bà đã tìm được thông tin người cha là chiến sĩ biệt động thành như lời nhắn nhủ của bà nội?

– Tôi vẫn luôn nhớ lời dặn của bà trước khi lên đường. Mãi về sau, khi có dịp gặp gỡ các anh trong đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam sang Pháp, tôi mới có cơ hội chia sẻ rằng mình có một người cha từng là biệt động thành.

Qua những lời kể trước lúc lên đường sang Pháp, tôi biết ngày đó, bố tôi rất thân với người bác tên Ngô Duy Đông. Bác Đông gọi bà nội tôi bằng cô ruột, lớn lên cùng bố tôi từ nhỏ, rồi 2 người cùng đi học, cùng chiến đấu.

Khi tôi nhắc đến tên bác Ngô Duy Đông, quê ở làng Đông Cao, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, một anh trong đoàn à lên một tiếng và nói, đó là Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng. Bác Đông sau này là Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương, một người rất nổi tiếng ở quê hương Thái Bình. 

Khi tôi về nước, việc đầu tiên là gặp bác Đông. Bác đưa tôi về quê, dẫn tôi tới gặp những đồng đội của bố, nghe kể lại những câu chuyện và thông tin về ông. Từ các chứng từ còn lưu giữ lại, sau này, bố tôi được công nhận là liệt sỹ.

Cuộc sống khi đã trở về Việt Nam có giống như hình dung của bà trước khi lên đường về nước?

– Đúng là khó khăn thật. Cuộc sống ở miền Bắc vào thời điểm đó thật sự rất vất vả và khác xa dự liệu của chúng tôi.

Khi về nước, tôi nhận công tác tại Viện Kỹ thuật quân sự thuộc Bộ Quốc phòng, sinh sống và làm việc tại Hà Nội. Lúc đầu, cả nhà tôi gồm hai vợ chồng và ba đứa con được cấp một căn nhà tập thể rộng 24m2, không đủ để chứa đống rương hành lý mang về từ Pháp. 

Thấy vậy, các anh cho thêm một căn nữa. Một căn chỉ để chứa 40 chiếc rương, một căn để cả nhà sinh hoạt. Dù đã được nhiều ưu ái nhưng giữa cuộc sống đầy đủ, tiện nghi tại nước Pháp và cuộc sống tại Hà Nội thời điểm ấy là khác biệt không hề nhỏ.

Miền Bắc ngày đó chưa có các khu chợ, mọi sự trao đổi, mua bán đều theo chế độ bao cấp, dùng tem phiếu. Dù có tiền trong tay nhưng chúng tôi không thể mua lương thực, thực phẩm.

Khi tôi về nước được một năm, mẹ tôi, lúc ấy vẫn còn ở Toulouse, bắt đầu sốt ruột. Bà thấy ở Pháp, người ta qua di tản mỗi lúc một nhiều, còn con gái mình thì lại về sống ở nơi vừa đi qua chiến tranh. 

Bà không báo trước, tự mình mua vé máy bay trở về Việt Nam, đến tận khu tập thể nơi tôi và gia đình đang ở, chỉ để xem chúng tôi sống thế nào.

Vừa bước chân vào nhà, bà gần như thảng thốt hét lên: “Làm sao mày có thể sống thế này được? Tao đã mua sẵn 5 vé máy bay rồi, qua lại bên kia thôi! Tao bảo lãnh hết cho mà đi!”.

Nhưng tôi chỉ nhẹ nhàng đáp: “Đây là lựa chọn của con, con đã được học tập, làm việc ở bên đó 18 năm, trong lúc đất nước phải chịu khổ cực. Con về để đồng cam chịu khổ với đất nước mình”.

Mẹ tôi không nói gì thêm, nhưng tôi thấy bà bực bội và thất vọng lắm. Bà quay sang nói với mấy đứa nhỏ đi theo, mong có đứa cùng bà về lại Pháp. Nhưng rốt cuộc, các con tôi vẫn lựa chọn ở lại cùng bố mẹ.

Trong bối cảnh đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh với muôn vàn khó khăn, bà đã quyết tâm nghiên cứu vòng tránh thai – một sản phẩm khi ấy còn khá lạ lẫm với đa số người dân. Điều gì đã khiến bà dấn thân vào hướng đi táo bạo nhưng thiết thực đó?

– Với một đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh, chúng tôi hiểu rằng các cặp đôi trẻ được đoàn tụ, sẽ hình thành những gia đình mới. Nếu không có các phương tiện tránh thai, lực lượng lao động sẽ bị sụt giảm một nửa, gây thêm nhiều khó khăn cho công cuộc tái thiết.

Khi còn ở Pháp, tôi đã nghe về công trình sản xuất vòng tránh thai của họ với hiệu quả rất cao. Nhận thức rõ rằng nước mình rất cần sản phẩm này, tôi lập tức xin với trưởng phòng cho tham gia.

Ban đầu, tôi chỉ được phân công làm phần cuối trong quy trình, nhưng tôi chủ động nghiên cứu ngược lại từ đầu, tìm hiểu từng thế hệ vòng tránh thai trước đó, các vật liệu cần thiết, tiêu chuẩn chất lượng, tính an toàn. 

Khi quay về TPHCM, tôi có dịp gặp anh Dương Quang Trung, Giám đốc Sở Y tế lúc bấy giờ. Tôi mang theo hồ sơ đầy đủ và khoảng 20kg vòng tránh thai mẫu đã sản xuất tại Pháp để trình bày với anh.

Câu hỏi đầu tiên anh Trung đặt ra là vật liệu để sản xuất vòng này lấy ở đâu, xuất xứ toàn từ Mỹ, mà Mỹ đang cấm vận, sao mình mua được. Tôi đáp rằng sẽ có cách.

Từ khi công tác tại miền Bắc, cần tài liệu hay vật tư gì, tôi đều liên hệ danh sách những trí thức ở nước ngoài có thể hỗ trợ trong từng ngành, từng lĩnh vực. Vì vậy, khi cần mua loại vật liệu đặc thù đó từ Mỹ, tôi nhờ một người bạn bên Pháp đặt mua, rồi vận chuyển về. 

Sau khi nghe tôi trình bày, anh lại đưa ra hàng loạt câu hỏi và tôi đáp lại ngay:

“Cô định tiệt trùng vòng tránh thai bằng cách nào?”.”Bằng tia gamma”.”Nhưng Việt Nam làm gì có tia gamma?”.”Viện Hạt nhân Đà Lạt có”.

“Các cán bộ viện nói rằng họ chưa bao giờ thực hiện tiệt trùng vòng tránh thai”.

“Tôi đã chuẩn bị sẵn rồi”.

“Vậy thử nghiệm trên động vật thì sao?”.”Viện Pasteur đảm nhận”.”Còn thử nghiệm lâm sàng?”.”Bệnh viện Từ Dũ sẽ thực hiện”.

Mỗi công đoạn, từ phân tích vật liệu, kiểm định cơ lý hóa, đến thử nghiệm lâm sàng đều có cơ quan, đơn vị và con người cụ thể phụ trách. Sau thống nhất, tinh thần cống hiến của mọi người rất cao, tôi chưa từng nghe ai hỏi “Tiền đâu để làm?”. 

Sau này, khi biết Việt Nam đã sản xuất tới 5 triệu vòng tránh, Liên Hợp Quốc tỏ ra rất ngạc nhiên. Họ đặt câu hỏi một đất nước vừa giải phóng, lại sản xuất một sản phẩm đưa vào cơ thể phụ nữ, liệu có an toàn không? 

Họ cử một phái đoàn quốc tế đến kiểm tra. Trong buổi làm việc với họ, tôi trình bày rõ, chúng tôi làm theo đúng tiêu chuẩn quốc tế, chọn đúng vật liệu, đo tính năng cơ lý hóa, có các viện chuyên môn đảm trách từng phần.

Sau khi đọc hồ sơ, kiểm tra quy trình, họ đồng ý ký các văn bản cần thiết và còn cấp thêm kinh phí để Việt Nam tiếp tục sản xuất. 

Nhìn lại quá trình về nước và cống hiến cho ngành khoa học, điều gì khiến bà cảm thấy tự hào nhất?

– Thời điểm ấy chúng tôi không có tài chính, không có phương tiện. Tôi được giao xây dựng Trung tâm Kỹ thuật Chất dẻo thuộc Sở Công nghiệp, nhưng không có kinh phí từ Nhà nước. 

Tôi tận dụng mối quan hệ với giới trí thức Việt kiều ở Pháp, vận động để đưa đội ngũ kỹ sư đi đào tạo. Ngày đó, nhân viên của tôi có người sang Pháp, người đi Canada, Úc, có người làm tiến sĩ, có người đi thực tập vài tháng đến vài năm. 

Giai đoạn đó, tôi nghĩ rằng cần tạo ra các sản phẩm người dân có thể dùng ngay. Chúng tôi bắt đầu từ các sản phẩm vật liệu composite, chỉ cần một cây cọ là có thể làm được. 

Hóa chất tôi vận động từ các nguồn, sau đó chuyển giao công nghệ ở sáu tỉnh thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long.

Tôi làm việc trực tiếp với Sở KHCN các tỉnh, yêu cầu họ tập hợp con người, chúng tôi hướng dẫn tận tay. Lúc đầu chỉ làm bàn ghế, xuồng, ghe, bồn nước, sau này điều kiện tốt hơn thì chuyển sang các sản phẩm cao cấp.

Các kỹ sư của trung tâm đến hướng dẫn các nhà máy nhựa lựa chọn nguyên liệu, điều chỉnh công thức pha chế để sản phẩm đạt độ bền UV, chống cháy, chống va đập đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.

Suốt 20 năm phụ trách Trung tâm Kỹ thuật chất dẻo, tôi cùng anh em chuyển giao công nghệ từ Nam ra Bắc, sống bằng chính phần thu từ tư vấn kỹ thuật. Điều tôi tự hào nhất là đã góp phần giúp ngành nhựa Việt Nam đạt chuẩn xuất khẩu, từng bước thu hẹp khoảng cách với Thái Lan.

Tôi rất mừng vì những gì mình đã góp sức. Từ thời kỳ đầu về nước làm việc trong lĩnh vực bán dẫn, sau đó tiếp nhận Trung tâm Kỹ thuật chất dẻo, làm vòng tránh thai, rồi 20 năm đào tạo đội ngũ để các em trưởng thành và giúp ngành nhựa Việt Nam phát triển.

Sau khi nghỉ hưu, bà tiếp tục có hơn 20 năm làm cầu nối kiều bào. Điều gì khiến bà vẫn giữ được ngọn lửa cống hiến ấy?

– Trong suốt quá trình làm việc, tôi chỉ là một cây cầu, một người được giao nhiệm vụ. Sở dĩ tôi làm được nhiều điều sau khi về nước là vì biết tận dụng sức mạnh tập thể, đặc biệt là đội ngũ trí thức người Việt ở khắp nơi trên thế giới.

Tôi may mắn được tham gia phong trào cổ vũ cách mạng tại Pháp. Khi còn là sinh viên, tôi tham gia Ban Thư ký Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam. Sau này, khi đã đi làm, tôi là thư ký khoa Hóa trong Hội Trí thức Việt Nam tại Pháp. 

Về nước, mỗi khi cần tài liệu hay mẫu sản phẩm mới, tôi chỉ cần nhắn một câu là anh em gửi về. Mỗi mùa hè, nhiều người trở về thăm quê cũng mang theo vali tài liệu, công nghệ, sẵn sàng hỗ trợ đào tạo, tập huấn, tất cả vì tâm huyết với đất nước. Tôi thấm thía sức mạnh của trí thức kiều bào: chỉ cần tìm đúng người, đúng việc là có thể kết nối và nhận được sự hỗ trợ.

Năm 2003, khi nghỉ hưu, tôi được Ủy ban MTTQ Việt Nam mời phụ trách công tác đối ngoại nhân dân và vận động kiều bào – công việc tôi thấy mình đủ duyên, đủ lực để đảm nhận. Cũng năm ấy, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 36, Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài tại TPHCM được thành lập, tôi làm Chủ tịch đầu tiên.

Giai đoạn ấy, sự phân biệt giữa kiều bào và người trong nước còn rất khắt khe. Khi tôi đi về từng quận, huyện để lập ban liên lạc, nhiều người vẫn ngơ ngác hỏi: “Công tác kiều bào là làm gì?”.

Có lần, một cựu chiến binh nói thẳng: “Cô Vân, trí thức như cô từ Pháp về, chúng tôi trải thảm đỏ đón. Nhưng lão Việt kiều cạnh nhà tôi, từng bỏ đi sau Ngày Thống nhất, giờ về thì tôi không muốn gặp.”

Tôi chỉ nhẹ nhàng đáp, họ đi nhưng vẫn nhớ quê để quay về. Cứ mỉm cười, bắt tay, mời họ xem địa phương cần gì, biết đâu lại giúp, lại kết nối. Con mình giận bỏ đi, nay gõ cửa trở về, lẽ nào không mở?

Cứ từng bước như vậy, không khí dần trở nên cởi mở hơn.

Năm 2025 đánh dấu nhiều cột mốc lớn của dân tộc như 50 năm thống nhất, 80 năm thành lập nước. Với tư cách một trí thức luôn gắn bó, làm cầu nối cho khối đại đoàn kết dân tộc, bà nhìn nhận thế nào về chặng đường phát triển mà đất nước đã đi qua?

– Tôi đã trở về nước gần 50 năm, được chứng kiến trọn vẹn chặng đường dài phát triển của đất nước. Khi đất nước chuẩn bị kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, tôi càng cảm thấy vinh dự và tự hào khi được sống trong giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ, sẵn sàng vươn cao, bay xa.

Thời tôi trở về, đất nước gần như không có gì. Giờ đây, các bạn trẻ về nước làm việc được tiếp cận phòng thí nghiệm hiện đại, phương tiện đầy đủ, chuyên gia quốc tế đến tận nơi. Điều kiện bây giờ không thua gì nước ngoài. 

Tôi rất tự hào khi thấy uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Nhiều Việt kiều trẻ giờ đây không chỉ tự hào mang dòng máu Việt, mà còn chủ động tìm về nguồn cội, góp sức cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Hôm nay, nhìn lại một chặng đường dài mà đất nước đã đi qua, tôi tin tưởng vào tương lai, vào thế hệ trẻ đang tiếp bước. Việt Nam đang dần trở thành một hình mẫu của thế giới và chắc chắn sẽ đạt nhiều thành tựu lớn.

Tôi chỉ là một hạt bụi nhỏ trong chiều gió lớn của dân tộc, nhưng được bay trong ngọn gió đó là niềm hạnh phúc vô bờ.

Các con tôi nhiều lần khuyên tôi và ba chúng định cư nước ngoài để tiện gần con cháu. Nhưng tôi và ông nhà đều nói: “Ba má đã chọn Việt Nam để trở về, và đây vẫn là nơi ba má muốn sống cho đến ngày không còn đủ sức nữa”.

Xin cảm ơn bà!

Nội dung: Q.Huy

Ảnh: Bảo Quyên

Video: Thúy Hường

Thiết kế: Tuấn Huy



Source link: https://dantri.com.vn/xa-hoi/ts-luong-bach-van-quyet-dinh-tro-ve-tu-paris-lam-hat-bui-trong-gio-viet-nam-20250817155248559.htm

One thought on “TS Lương Bạch Vân quyết định trở về từ Paris làm “hạt bụi trong gió Việt Nam”

  1. Great article! 👏 I really appreciate the way you explained this topic—it shows not only expertise but also a clear effort to make it easy for readers to understand. What stood out to me most is how practical your insights are, which makes the piece very relatable. As someone who works a lot with different industries and categories, I can say your perspective feels very authentic. At https://meinestadtkleinanzeigen.de/top-link-building-agenturen-in-deutschland/ we run a directory platform in Germany that connects people and businesses across many categories, and it’s always refreshing to see content that adds real value like this. Looking forward to reading more of your work—keep it up! 🚀

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *