50 năm đã trôi qua, cựu chiến binh Phạm Duy Đô, sinh năm 1950, quê tỉnh Thái Bình, vẫn nhớ như in thời khắc ông cùng đồng đội trực tiếp dẫn đường cho xe tăng của Đại đội trưởng Bùi Quang Thận tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. Ông Đô đã tham gia bắt giữ Tổng thống Dương Văn Minh và nội các, đồng thời là người phất cờ giải phóng trên tầng 2 Dinh Độc Lập. Câu chuyện của ông là minh chứng sống động cho tinh thần kiên cường và lòng dũng cảm của người lính Việt Nam trong cuộc chiến giành độc lập.
Đô “Gù” và Hành Trình Đặc Công
Năm 1969, khi vừa tròn 19 tuổi, Phạm Duy Đô xung phong nhập ngũ. Với biệt tài bơi lội xuất sắc, ông được tuyển chọn vào Binh chủng Đặc công và trải qua quá trình huấn luyện tại đơn vị đặc công nước. Sau 6 tháng huấn luyện, ông Đô được Tiểu đoàn chọn là một trong sáu người bơi mẫu tại Trường Lục quân 1 (Sơn Tây).
Năm 1971, ông Đô vinh dự tham gia diễn tập phục vụ Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong buổi tiếp đón lãnh tụ Cuba Fidel Castro và Tổng Bí thư Ba Lan. Ông cùng đồng đội đã trình diễn kỹ thuật chiến đấu đặc công nước, bơi qua sông Hồng, tiếp cận sân bay Gia Lâm và thực hiện các tình huống chiến đấu đặc biệt. Màn trình diễn ấn tượng của họ đã nhận được sự khen ngợi và bắt tay trực tiếp từ lãnh tụ Cuba Fidel Castro.
Tháng 5/1971, Phạm Duy Đô cùng đồng đội nhận nhiệm vụ bảo vệ và dẫn đường cho 24 sinh viên Lào và Campuchia vừa tốt nghiệp từ các trường đại học y của Việt Nam vượt Trường Sơn bàn giao cho nước bạn. Sau gần 5 tháng đối diện với muôn vàn khó khăn, ông Đô cùng đồng đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Thay vì trở về miền Bắc, ông Đô tiếp tục ở lại chiến đấu tại chiến trường Đông Nam Bộ. Ông được biên chế về Đại đội 1, Tiểu đoàn 19, Trung đoàn 116, đặc công miền Đông Nam Bộ, cùng đồng đội trực tiếp trinh sát, điều nghiên và tham gia hàng chục trận đánh quan trọng.
Năm 1972, với chức vụ Đại đội phó, ông Đô đã chỉ huy đại đội đánh vào tổng kho Long Bình cùng với hai mũi giáp công khác. Khi các mũi trinh sát đột nhập vào tổng kho Long Bình, ông Đô và đồng đội phát hiện các cánh cửa ở kho đều bằng thép, rất khó tiếp cận. Sau khi điều nghiên thực địa, họ nảy ra sáng kiến đánh kho bom qua lỗ thông gió.
“Chúng tôi đột nhập vào tận nơi, dùng gạch buộc sợi chỉ vào thả xuống lỗ thông gió để đo chiều sâu. Chúng tôi đề nghị cấp trên cho may ruột tượng bằng ni lông, thả xuống lỗ thông gió rồi đổ thuốc nổ vào ruột tượng, cài kíp hẹn giờ. Hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi rút về đến căn cứ thì nghe tiếng nổ vang trời từ phía tổng kho Long Bình. Trận này, quân ta thắng lớn”, ông Đô nhớ lại.
Biệt danh Đô “Gù” xuất hiện vào tháng 10/1973, khi ông là Đại đội trưởng Đại đội 1, Tiểu đoàn 119, Trung đoàn 116, Sư đoàn đặc công miền Đông Nam Bộ. Trong trận đánh chiếm Chiến đoàn 43 của địch đóng tại Biên Hòa, ông bị đạn của địch bắn găm vào đùi và bị cây đè gẫy đốt sống, bất tỉnh. Đồng đội tưởng ông đã hy sinh và đưa ra bờ suối để chôn cất. Nhưng đến nửa đêm, hơi sương lạnh khiến ông Đô tỉnh lại và được đưa về tuyến sau điều trị. Chỉ ít tháng sau, vết thương lành nhưng xương sống nổi cục, từ đó ông có biệt danh Đô “Gù”.
Đột Nhập Sài Gòn và Nhiệm Vụ Đặc Biệt
Cuối năm 1973, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, và Trung đoàn trưởng Võ Tấn Sỹ trực tiếp giao nhiệm vụ cho ông Phạm Duy Đô cùng hai chiến đấu viên xuất sắc là Đỗ Đức Tốc và Lê Huy Hoạt, đột nhập nội thành Sài Gòn. Nhiệm vụ của họ là thực hiện điều nghiên, vẽ sơ đồ tác chiến Dinh Độc Lập và các mục tiêu vùng phụ cận.
Với sự giúp đỡ của cơ sở cách mạng nội thành, tổ trinh sát của ông Phạm Duy Đô đã tận dụng hệ thống cống ngầm, đóng giả thành lính Việt Nam Cộng hòa bị thương để âm thầm theo dõi và thu thập thông tin. Sau gần nửa tháng, họ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cung cấp những thông tin vô cùng quý giá cho Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975.
Ông Đô nhớ lại: “Ban ngày tôi cứ đi vòng quanh Dinh Độc Lập, vừa đi vừa đếm bước chân. Đi đến đâu phải quan sát, phải nhớ địch bố trí lực lượng, tháp canh ở đâu? Thế nào? Cứ điểm Quang Trung, cứ điểm Thủ Đức rồi cứ điểm đại sứ quán. Phải nhớ để vẽ lại”.
Phất Cờ Giải Phóng ở Dinh Độc Lập
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, với tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Trong chiến dịch này, bộ đội đặc công được giao nhiệm vụ hết sức quan trọng là phối hợp đánh chiếm và bảo vệ một loạt các cứ điểm trọng yếu ở 14 cửa ngõ vào Sài Gòn.
Những ngày cuối tháng 4/1975, Đại đội 1, Tiểu đoàn 19, Trung đoàn 116 Đặc công miền Đông Nam Bộ được lệnh tấn công vào tổng kho Long Bình phía Nam, chiếm và giữ cầu xa lộ Biên Hòa. Đơn vị của ông Đô phải thực hiện nhiệm vụ chiếm giữ và bảo vệ cầu Đồng Nai, một trong 14 cửa ngõ dẫn thẳng vào Sài Gòn.
Đối phương bắt đầu tính đến kế hoạch cuối cùng là phá hủy cầu nếu không ngăn được quân ta. Lính Việt Nam Cộng hòa gài 7 quả bom tấn ém ở chân cầu, sẵn sàng kích nổ khi không thể giữ được cầu. Ông Đô kể lại: “Tôi được trực tiếp nhận nhiệm vụ phá trạm điện với mục tiêu cắt đứt kíp nổ xa của bom đang ém ở chân cầu. Rạng sáng 28/4/1975, tôi mang theo súng, cùng 5 quả bộc phá 5kg đặt lên một chiếc phao, buộc vào lưng rồi bí mật bơi sang bờ bên kia, phá thành công trạm điện”.
Sáng 30/4/1975, xe tăng của Lữ đoàn Tăng thiết giáp 203 thuộc Quân đoàn 2 đã đến cầu Đồng Nai. Trung đoàn 116 quyết định để lại một tiểu đoàn đặc công nước giữ cầu, còn lại tổ chức lực lượng theo xe tăng tiến vào Sài Gòn. Khi xe tăng quân ta đến, một cán bộ chỉ huy cánh đông hỏi: “Các đồng chí đặc công có ai biết đường vào Dinh Độc Lập không?”. Trung đoàn trưởng Võ Tấn Sỹ đã báo cáo cấp trên rằng, Đại đội trưởng đội 1 Phạm Duy Đô từng nhận nhiệm vụ bí mật nghiên cứu toàn bộ Dinh Độc Lập và tất cả mục tiêu lân cận Sài Gòn.
Sau đó, đơn vị đặc công phối hợp với Lữ đoàn Tăng thiết giáp 203 và chiến sĩ Phạm Duy Đô được ngồi cùng xe tăng với Đại đội trưởng Bùi Quang Thận. Khoảng 11h ngày 30/4/1975, đoàn xe tăng của Lữ đoàn 203 tiến vào Dinh Độc Lập. Khi xe tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập, ông Phạm Duy Đô cùng các đồng đội nhảy xuống, cầm súng AK tiến vào. Lúc này, toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn đang ngồi quanh chiếc bàn bầu dục.
“Khi tôi kéo tấm rèm che phòng họp, thì thấy toàn bộ nội các của ông Dương Văn Minh đang ngồi trong này. Tôi chĩa súng và hô to: ‘Các ông đã bị bao vây. Các ông bỏ súng, đứng dậy đầu hàng, không ai được nhúc nhích’. Sau đấy, tôi giao cho đồng chí Phạm Huy Nghệ đứng bảo vệ”, ông Đô kể lại.
Trên đường lên tầng 2 của Dinh Độc Lập, ông Đô nhìn thấy một chiếc cán, nên lấy cờ trong túi ra, gài cờ vào cán, chạy ra ban công phất cờ liên tục, báo hiệu an toàn để quân ta tiếp tục tiến vào. Sau khi ra hiệu cho quân ta tiến vào, ông Đô xuống dưới gặp một cán bộ, liền hô: “Báo cáo thủ trưởng. Tôi – Đại đội trưởng Phạm Duy Đô, đơn vị đặc công đã hoàn thành nhiệm vụ. Mời thủ trưởng vào giải quyết”.
Đúng 11h30 ngày 30/4/1975, lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau ngày thống nhất đất nước, ông Đô được phân công làm công tác quân quản ở Thủ Đức. Năm 1983, ông Phạm Duy Đô trở về quê hương nghỉ chế độ mất sức và hưởng chế độ thương binh 2/4. Với những cống hiến của mình, ông đã được Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý: 2 Huân chương Chiến công hạng Hai, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt cơ giới, Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng Hai, Ba.
Câu chuyện của cựu chiến binh Phạm Duy Đô không chỉ là một trang sử hào hùng mà còn là nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho thế hệ trẻ Việt Nam, nhắc nhở chúng ta về giá trị của lòng dũng cảm, sự hy sinh và tinh thần đoàn kết trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.