Trong cuộc chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc, lớp lớp thanh niên đã rời xa gia đình, quê hương để ra trận. Nơi quê nhà, những người mẹ, người vợ, người chị luôn cố gắng để “hậu phương vững chắc, tiền tuyến yên lòng”. Họ như sợi chỉ vàng, lóng lánh và rực rỡ, dệt nên bức tranh hòa bình, sự trường tồn của dân tộc. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng khám phá câu chuyện cảm động về người vợ hậu phương, bà Đặng Thị Xuân, và lá thư cuối cùng của liệt sĩ Nguyễn Văn Đỉu.
Trở Lại Chiến Trường Khi Con Gái 20 Ngày Tuổi
Những ngày giữa tháng tư, trong căn nhà nhỏ nơi cuối xóm Bắc Sơn, bà Đặng Thị Xuân (72 tuổi, xã Phù Lưu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) đang chuẩn bị mâm lễ đơn sơ dâng lên bàn thờ người chồng – liệt sĩ Nguyễn Văn Đỉu (SN 1953). Bà Xuân tâm sự về người chồng là chiến sĩ giải phóng quân, người đã hy sinh vì Tổ quốc.
Cầm nén hương trên tay, ánh mắt bà Xuân nhòe lệ trong làn khói hương trắng bảng lảng. Ngay khoảnh khắc ấy, bà Xuân vẫn toát lên sự kiên cường, mạnh mẽ của người từng trải qua nỗi đau chiến tranh, trọn tình suốt nửa thế kỷ thờ chồng, nuôi con.
“Lễ giỗ năm nay là cột mốc đặc biệt – 50 năm kể từ ngày anh ra đi mãi mãi. Nếu còn sống, anh đã 72 tuổi”, bà Xuân tâm sự.
Khuôn mặt bà Xuân in đậm vết thời gian với những nếp nhăn, mái tóc cũng thưa dần. Nhắc đến người chồng ngày trai trẻ, bà Xuân bồi hồi gọi bằng cái tên thân thương “anh Đỉu”.
“Chúng tôi cùng học với nhau từ thời cấp 2, tôi mến anh là người hiền lành, chất phác và vui tính. Người chỉ cao chưa đầy mét sáu, nhưng tự tin, bản lĩnh lắm”, bà Xuân kể lại.
Theo bà Xuân, giữa năm 1973, sau khi tham gia dân công hỏa tuyến ở miền tây Quảng Trị trở về, anh Đỉu cưới cô gái làng bên là bà, khi cả hai vừa tròn tuổi đôi mươi. Một đám cưới nhỏ với vài mâm cỗ được tổ chức nơi vùng quê bình yên, nhưng ấm cúng, chan chứa tình yêu thương.
Bà Xuân nhớ lại, ngày cưới vợ, anh Đỉu mặc chiếc áo sơ mi trắng, món quà anh để dành sau hai năm tham gia chiến trường trở về. Còn cô dâu bẽn lẽn trong bộ quần áo mới, món quà cưới từ mẹ chồng. Không váy cưới, cũng không có nhẫn vàng, nhưng ánh mắt của đôi vợ chồng trẻ trao nhau hôm ấy sáng rực một lời hẹn thề.
Tháng 12/1974, họ đón cô con gái đầu lòng và đặt tên là Nguyễn Thị Thoan. Khi cô con gái bé bỏng được 20 ngày tuổi, anh Đỉu trở lại quân ngũ, tham gia chiến đấu tại chiến trường miền Nam.
Ngày người lính rời quê, họ lưu luyến không rời. Người vợ trẻ ôm con đứng ở hiên nhà, đưa cặp mắt ướt nhòe dõi theo chồng khuất dần trên chiếc xe, còn anh Đỉu mang theo nỗi nhớ và lời hứa “Anh sẽ chiến đấu và trở về”.
“Ngày anh đi, lòng tôi thắt lại. Tôi hiểu, chiến tranh lúc đó rất ác liệt, nhưng vẫn động viên anh cố gắng chiến đấu vì Tổ quốc”, bà Xuân chia sẻ.
Hướng mắt về phía bàn thờ, bà Xuân kể, từ ngày chồng vào chiến trường, anh không có dịp về quê thăm gia đình lần nào. Họ chỉ trò chuyện, tâm sự, hỏi han nhau qua những bức thư từ tiền tuyến gửi về và nơi hậu phương gửi vào.
“Anh chỉ gửi 5 bức thư về cho bố, mẹ và vợ. Các bức thư qua thời gian đã bị thất lạc. Nhưng từng câu, từng chữ trong bức thư cuối cùng anh Đỉu gửi về tôi vẫn nhớ như in. Vì bức thư đó mà tôi khóc rất nhiều”, bà Xuân chia sẻ.
Lời Nhắn Gửi Của Người Vợ Nơi Hậu Phương
Ngày 30/4/1975, tiếng loa vang vọng từ đài phát thanh thông báo tin miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, bà Xuân vỡ òa, vui mừng ôm cô con gái nhỏ vào lòng.
Từ ngày đó, bà Xuân sống trong hy vọng, chờ đợi người chiến sĩ giải phóng quân sớm trở về đoàn viên cùng gia đình. Bà không nhớ mình đã biên bao nhiêu bức thư gửi vào đơn vị, hỏi tình hình chồng. Mỗi bức thư, bà đều nhắn gửi: “Nhớ lời hứa sống và trở về anh nhé”.
Nhưng gần một năm trôi qua, không có tin tức, cũng không có một bức thư nào hồi âm từ chiến trường. Đến giữa năm 1976, không kìm được nỗi nhớ nhung và lo lắng, bà Xuân viết một bức thư tay nhắn hỏi đồng đội từng cùng chồng vào chiến trường.
“Anh có tin gì về anh Đỉu không”, câu hỏi giản dị, ngắn ngủi, nhưng chất chứa bao nỗi mong ngóng của người vợ lính.
Cho đến tháng 10/1976, đồng đội của chồng hồi âm. Trong lá thư ngắn ngủi được viết bằng mực đỏ “Từ ngày giải phóng, anh không gặp Đỉu nữa”.
Cầm lá thư trên tay, bà Xuân bàng hoàng, bật khóc. Bà nhào tới ôm chầm lấy người mẹ già đang mong ngóng tin con trai từng ngày.
Năm 1978, sau 3 năm chồng hy sinh, gia đình nhận giấy báo tử, trong đó ghi liệt sĩ Đỉu hy sinh ngày 18/4/1975, tại Dầu Giây – Long Khánh. Nhìn thấy mẹ khóc, cô con gái Thoan chạy tới thủ thỉ, an ủi, nỗi lòng người vợ phần nào vơi đi nỗi đau.
Năm 1979, mẹ chồng mất, trước lúc nhắm mắt, bà căn dặn con dâu: “Hay con xin một đứa trẻ về nuôi, hoặc tính chuyện đi bước nữa, cho vơi bớt nỗi cô quạnh”.
Ít năm sau, bà Xuân nhận anh Nguyễn Văn Mậu (SN 1981) làm con. Hiện, bà sống cùng vợ chồng anh Mậu trong căn nhà nhỏ đượm đầy ký ức. Cô con gái đầu Nguyễn Thị Thoan đã yên bề gia thất, là giáo viên mầm non, nuôi dạy hai con thơ tại quê nhà. Cuộc sống đủ đầy tiếng cười con trẻ.
“Nhiều lúc nghĩ lại, chiến tranh đã mang chồng của tôi, cha của con đi mãi mãi. Nhưng rồi nhìn chúng lớn khôn, trưởng thành, tôi được an ủi phần nào. Giờ tôi có bốn cháu nội, cháu ngoại, ríu rít bên bà cả ngày”, bà Xuân chia sẻ.
Chiều hạ, ánh nắng vàng xuyên qua cửa sổ phản chiếu lên bàn thờ làm nổi bật dòng chữ “Tổ quốc ghi công” trên tấm bằng thiêng liêng. Bàn thờ không có di ảnh của liệt sĩ Nguyễn Văn Đỉu, thay vào đó là những tấm huân, huy chương chiến sĩ giải phóng ghi nhận công lao của liệt sĩ đã chiến đấu, hy sinh cho Tổ quốc.
Nửa thế kỷ từ ngày đất nước thống nhất, trong căn nhà nhỏ, bà Xuân vẫn đều đặn lo hương khói trên bàn thờ cho chồng mỗi sớm chiều. Những câu chuyện về người chồng liệt sĩ vẫn được bà Xuân gìn giữ như một phần máu thịt. Bà kể lại từng câu chuyện đó cho con cháu nghe không phải để khơi lại nỗi buồn, mà để nhắc nhớ về những hy sinh cao cả của một người lính giải phóng.
Kết Luận
Câu chuyện về bà Đặng Thị Xuân và lá thư cuối cùng của liệt sĩ Nguyễn Văn Đỉu là một minh chứng sống động về sự hy sinh và lòng kiên cường của những người vợ hậu phương trong cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Họ đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng của dân tộc, bằng tình yêu thương, sự hy sinh và lòng kiên nhẫn không ngừng nghỉ. Những câu chuyện như thế này cần được lưu truyền để thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về giá trị của hòa bình và sự hy sinh của các thế hệ đi trước.
Hãy cùng nhau tưởng nhớ và tri ân những người đã hy sinh vì Tổ quốc, và tiếp tục xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình, thịnh vượng.
Tài Liệu Tham Khảo
- Dân Trí. (2025). Lá thư cuối cùng của liệt sĩ Đỉu. https://dantri.com.vn/xa-hoi/la-thu-cuoi-cung-cua-liet-sy-diu-20250419180540257.htm