Nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/2025) và Quốc khánh (2/9/1945-2/9/2025), Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân (nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng; nguyên Phó Cục trưởng Cục đối ngoại, Bộ Quốc phòng), chia sẻ về nhiều dấu mốc đáng tự hào của Việt Nam trong suốt hành trình 80 năm thành lập nước, trong cuộc trao đổi với phóng viên Dân trí.
Nhìn lại chặng đường 80 năm thành lập nước, ngành ngoại giao đã góp phần đem đến một vị thế mới cho Việt Nam trên trường quốc tế. Theo ông, trong suốt chặng đường lịch sử đó, đâu là những dấu mốc đáng tự hào nhất của ngoại giao Việt Nam?
– Trong suốt chặng đường lịch sử 80 năm, ngành ngoại giao Việt Nam đã trải qua những dấu mốc rất là đáng tự hào, thể hiện rõ ở từng giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất là 50 năm đầu kể từ ngày lập nước (1945-1995). Dấu mốc đầu tiên là năm 1945 với sự thành lập của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Năm 1954, Việt Nam ký Hiệp định Genève. Năm 1973, ngoại giao Việt Nam đã thành công với việc ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam. Mỹ và các nước công nhận quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam.
Đến năm 1977, chúng ta chính thức trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc – tổ chức liên Chính phủ lớn nhất thế giới.
Tiếp đó, năm 1995 cũng đánh dấu một thắng lợi vang dội là Việt Nam chính thức trở thành thành viên của “đại gia đình” ASEAN. Cùng với đó, Việt Nam ký kết một số hiệp định khung về hợp tác, đánh dấu bước quan trọng trong quan hệ với Liên minh Châu Âu.
Đặc biệt, cũng trong năm này, chúng ta bình thường hóa quan hệ với nước lớn cuối cùng trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc là Mỹ.
Giai đoạn tiếp theo là từ năm 1996 đến năm 2010. Đây là giai đoạn ngoại giao Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển đối ngoại trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Giai đoạn thứ ba từ năm 2011 tới nay, ngoại giao đã đóng góp đưa quan hệ đối ngoại của Việt Nam đi vào chiều sâu, hội nhập quốc tế toàn diện, thể hiện vai trò là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Những dấu mốc trong từng giai đoạn trên cho thấy ngoại giao có những đóng góp rất lớn, rất tích cực và tương lai của ngoại giao Việt Nam vẫn còn rất tươi sáng.
Riêng với dấu ấn về đối ngoại quốc phòng Việt Nam nhằm góp phần thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh và xung đột, theo ông, phải kể đến những điều gì?
– Đối ngoại quốc phòng Việt Nam là một bộ phận của đối ngoại Đảng, của ngoại giao Nhà nước. Lĩnh vực này cũng có những đóng góp rất tích cực, để lại nhiều dấu ấn sâu sắc.
Trước năm 1991, đối ngoại quốc phòng tập trung vào chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vẻ vang. Sau đó là khôi phục, bình thường hóa quan hệ quốc phòng với quân đội các nước lớn và các nước láng giềng. Đây cũng là cách gián tiếp phục vụ việc ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh và xung đột trở lại.
Sau đó, đối ngoại quốc phòng tập trung vào xây dựng, củng cố và tăng cường vành đai an ninh biên giới của Việt Nam, phát huy tác dụng rất tốt trong bảo vệ an ninh biên giới, phát triển kinh tế xã hội và đặc biệt là giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để đất nước tiếp tục phát triển.
Đối ngoại quốc phòng cũng thiết lập quan hệ với bạn bè cũ, bạn bè truyền thống, mở rộng bạn bè mới và các đối tác, qua đó nâng cao năng lực và sức mạnh chiến đấu của quân đội Việt Nam. Điều này đóng góp rất tích cực vào việc thực hiện chiến lược quốc phòng và quân sự, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Bên cạnh đó, chúng ta còn tham gia vào các cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN, hoạt động của Liên Hợp Quốc, mặc dù chưa nhiều nhưng cho thấy trách nhiệm của Việt Nam với cộng đồng quốc tế.
Nhìn lại, đối ngoại quốc phòng đã thể hiện xứng đáng vị trí là một trong những trụ cột của ngoại giao, vừa mang tính chất đặc thù nhưng cũng có đóng góp rất tích cực, rất to lớn đối với thành tựu đối ngoại chung của đất nước.
Bên cạnh những kết quả quan trọng trong đối ngoại, theo ông, đâu là những tồn tại, hạn chế cần khắc phục để chính sách ngoại giao trên các mặt trận phát huy hiệu quả trong tình hình mới?
– Trước hết, phải thẳng thắn thừa nhận mức độ đan xen lợi ích của Việt Nam với các đối tác chưa cao; còn khó khăn trong xử lý một số vấn đề trong quan hệ với các đối tác chủ chốt và quan trọng. Chúng ta chưa thực sự đáp ứng được những yêu cầu lẽ ra có thể làm được.
Chúng ta cũng còn thiếu chủ động, thiếu sáng tạo trong hội nhập quốc tế. Sự phối hợp giữa bộ ngành, địa phương và các cấp về công tác đối ngoại chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, trong hoàn cảnh cụ thể. Hay nói cách khác, công tác này còn phân tán, rải rác, manh mún, chưa tập trung thống nhất được như yêu cầu của Đảng, mong muốn của lãnh đạo cấp cao Nhà nước.
Cùng với đó, công tác nghiên cứu, tham mưu chiến lược dù có cố gắng vẫn chưa theo kịp sự phát triển của đất nước, của tình hình thế giới, chưa bám sát được sự thay đổi của cục diện khu vực và thế giới. Hạn chế này dẫn đến việc tham mưu chỉ đạo chiến lược của đất nước chưa được trọn vẹn.
Sau khi thống nhất đất nước, ngoại giao đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hòa bình, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng cục diện đối ngoại. Còn trong giai đoạn phát triển đất nước như hiện nay, theo ông, định hướng ngoại giao nên ưu tiên những gì?
– Sau khi đất nước thống nhất, ngoại giao đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hòa bình cũng như phá thế bao vây cấm vận, mở rộng cục diện đối ngoại. Trong giai đoạn phát triển đất nước hiện nay, định hướng ngoại giao nên ưu tiên một số việc.
Đầu tiên là ưu tiên xử lý hài hòa quan hệ với các nước láng giềng xung quanh mình.
Hai là ưu tiên đảm bảo vành đai an ninh và phát triển quanh Việt Nam, phải làm sao xử lý hài hòa quan hệ với các nước lớn và các đối tác quan trọng (không chỉ Mỹ, Trung Quốc mà cả Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc…).
Bên cạnh đó, cần tiếp tục nâng tầm đối ngoại đa phương.
Một định hướng ưu tiên nữa là ngoại giao phục vụ phát triển. Khi đấu tranh thống nhất đất nước chưa đặt ra định hướng này, nhưng giờ phải ưu tiên ngoại giao phục vụ phát triển để đạt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
Những định hướng ấy, sẽ góp phần nâng cao vị thế của đất nước trong tương lai.
Những năm gần đây, ngoại giao kinh tế đã trở thành nhiệm vụ trung tâm, một động lực quan trọng để phát triển đất nước. Việt Nam đã thu hút được hàng trăm tỷ USD vốn FDI, lọt top 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, là một mắt xích quan trọng trong 17 FTA gắn kết với hơn 60 nền kinh tế quan trọng trên thế giới… Ông đánh giá thế nào về ý nghĩa của chiến lược đẩy mạnh ngoại giao kinh tế bên cạnh ngoại giao chính trị, ngoại giao nhân dân trong thời điểm này?
– Từ sau Nghị quyết XIII năm 1988 tới nay và đặc biệt khi đổi mới đất nước, Việt Nam đã chú ý chiến lược đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, huy động ngoại giao chính trị, ngoại giao nhân dân hỗ trợ ngoại giao kinh tế.
Trong bối cảnh mới này, chiến lược đẩy mạnh ngoại giao kinh tế có ý nghĩa tiên phong tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình ổn định; tiếp tục đưa quan hệ của chúng ta vào chiều sâu có hiệu quả; gia tăng hơn nữa tin cậy chính trị, đan xem hài hòa lợi ích với các nước lớn.
Đặc biệt, thông qua câu chuyện về chính sách thuế quan của Mỹ vừa rồi cho thấy Việt Nam cần tranh thủ thời cơ để củng cố, gia tăng tin cậy chính trị và đan xen lợi ích với Mỹ, Trung Quốc. Đây là cơ hội quý, nếu bỏ qua sẽ rất đáng tiếc nên cần tranh thủ thời cơ thuận lợi để vươn lên.
Thực tế, nhiều nước cũng rất quan tâm Việt Nam và coi Việt Nam là một thị trường có uy tín, đang phát triển mạnh mẽ.
Về cách làm, ta cần sáng tạo hơn, tập trung vào trọng tâm trọng điểm như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, thu hút nguồn lực, cải cách cơ cấu kinh tế – những nội dung thế giới đang chuyển đổi mạnh mẽ.
Việt Nam cần đi vào những lĩnh vực mới, chuyển biến mạnh mẽ hơn trong hợp tác kinh tế, hợp tác khoa học kỹ thuật, công nghệ, giáo dục, lao động, chống biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, phải lồng ghép hiệu quả các nội hàm mục tiêu phát triển và các lĩnh vực, nhiệm vụ đối ngoại.
Đối với kinh tế đa phương, chúng ta thúc đẩy hợp tác thực chất, hiệu quả với các cơ chế đa phương của ASEAN, Liên Hợp Quốc, Tiểu vùng Mekong, APEC, ASEM… Việc Việt Nam được mời tham gia họp G20 hay G7 cũng cho thấy chúng ta đang có vị thế cao trên trường quốc tế.
Tựu chung lại, phải phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng toàn diện, hiện đại.
Trong kỷ nguyên mới, ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển được xác định là ưu tiên của ưu tiên. Theo ông, chúng ta cần đổi mới thế nào về nội dung, hình thức, cách làm ngoại giao kinh tế để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số từ sau Đại hội Đảng XIV, đồng thời tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng?
– Trong kỷ nguyên mới, chúng ta cần đổi mới về nội dung, hình thức, cách làm ngoại giao kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số sau Đại hội Đảng XIV, đồng thời tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng.
Theo tôi, chúng ta cần mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ kinh tế, tạo thế đan xen lợi ích kinh tế với các đối tác.
Hai là nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là ngoại giao cần hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp, người dân trong hội nhập kinh tế quốc tế, chứ không phải ngoại giao làm theo cách của mình, còn địa phương, doanh nghiệp làm thế nào là việc của họ.
Bốn là phải phát huy hơn nữa vai trò của ngoại giao Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân trong thúc đẩy phát triển ngoại giao kinh tế. Nghĩa là tất cả lĩnh vực phải tham gia thúc đẩy ngoại giao kinh tế.
Năm là ưu tiên đào tạo, mở rộng đào tạo, thậm chí đào tạo lại kiến thức liên ngành về các lĩnh vực mà thế giới đang làm rất nhiều nhưng Việt Nam chỉ mới ở giai đoạn đầu, như biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo.
Hiện nay ở Mỹ, họ lựa chọn những người giỏi nhất để đào tạo về trí tuệ nhân tạo. Việt Nam cũng cần có chính sách bố trí nhân lực giỏi nhất vào các lĩnh vực quan trọng này.
Bên cạnh đó, cần tận dụng tối đa các nguồn lực công nghệ trọng yếu để phục vụ phát triển đất nước và nâng cao vị trí Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Vừa rồi trong câu chuyện Việt Nam ký thỏa thuận thương mại với Mỹ, ta phải phấn đấu thực hiện tốt, tránh việc trở thành công xưởng sản xuất của một quốc gia nào đó.
Cuối cùng, chúng ta cần góp phần định hình các xu thế, quy tắc, chuẩn mực kinh tế mới của thế giới, trong đó có tính đến lợi ích của Việt Nam.
Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược nước lớn ngày càng gay gắt hiện nay, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “dĩ bất biến ứng vạn biến” hay triết lý “Ngũ tri” (năm cái biết – biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến) trong xử lý quan hệ với các nước lớn dường như vẫn còn nguyên giá trị. Theo ông, với bối cảnh thế giới phức tạp, khó lường như vậy, nền ngoại giao hòa hiếu, nhân văn, chuộng chính nghĩa, yêu lẽ phải có ý nghĩa như thế nào?
– Từ khi lập nước, chúng ta đã thấm nhuần rất sâu sắc ý nghĩa của nền ngoại giao hòa hiếu, nhân văn. Trong giai đoạn này, ngoại giao hòa, hiếu nhân văn càng có ý nghĩa to lớn hơn.
Chúng ta cần kế thừa tinh hoa của ngoại giao truyền thống, đặt lợi ích quốc gia và đoàn kết dân tộc lên trên hết.
Chúng ta coi trọng ngoại giao, đặc biệt là giữ gìn quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn và các nước khu vực, các nước bạn bè truyền thống và các nước khác trong cộng đồng quốc tế.
Chúng ta coi trọng hòa bình, hòa hiếu, hữu nghị; kiên định mục tiêu, nguyên tắc nhưng linh hoạt và trí tuệ trong hoạt động ngoại giao.
Đặc biệt, giai đoạn mới, Việt Nam vẫn thấm nhuần triết lý “ngũ tri”, “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong đối ngoại để đảm bảo đấu tranh ngoại giao thắng lợi với giá thấp nhất, thắng lợi sớm nhất và bền vững nhất.
Chúng ta cũng phải tiếp tục học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, đồng thời, ứng dụng các hình thức ngoại giao mới của thời đại như ngoại giao số, ngoại giao năng lượng, ngoại giao văn hóa, ngoại giao khí hậu, ngoại giao công chúng. Mục tiêu là làm sao hướng đến xây dựng nền ngoại giao Việt Nam trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp và toàn diện, hiện đại.
Sứ mệnh nặng nề nhưng cũng đầy vinh quang của ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, theo ông, là gì?
– Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, sứ mệnh của ngoại giao rất nặng nề nhưng cũng rất vinh quang.
Thứ nhất, ngoại giao phải làm sao đóng góp vào việc giữ vững môi trường hòa bình ổn định; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thứ hai, phải làm sao để tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, cái này không chỉ riêng ngoại giao mà còn bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, xã hội.
Ba là tranh thủ tối đa các điều kiện và nguồn lực để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nhanh và bền vững.
Bốn là ngoại giao cần góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa thông qua hợp tác quốc tế, giao lưu đối ngoại, học tập kinh nghiệm từ các nước bạn để xây dựng hoàn thiện Nhà nước của ta.
Thứ năm, chính sách ngoại giao phải góp phần cải thiện đời sống nhân dân, hướng tới mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển có thu nhập cao và đến 2045 có chuyển biến lớn hơn nữa.
Thứ sáu là ngoại giao phải góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong thế kỷ XXI và bối cảnh kỹ thuật số.
Cuối cùng là ngoại giao cần góp phần nâng cao vai trò, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước, một đất nước giành nhiều thành tựu vĩ đại trong 40 năm đổi mới.
Xin cảm ơn ông!
Source link: https://dantri.com.vn/xa-hoi/nhung-dau-moc-dang-tu-hao-cua-ngoai-giao-viet-nam-trong-80-nam-lap-nuoc-20250806151221139.htm