Tấm Bản Đồ của Má Sáu Ngẫu: Hành Trình Giải Phóng Sài Gòn

Tấm bản đồ của má Sáu Ngẫu chỉ đường đoàn quân tiến công vào Sài Gòn

Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975) đã trôi qua 50 năm, nhưng Thượng tướng, Viện sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII, IX, X), nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, vẫn còn nguyên cảm giác lâng lâng khó tả khi nhớ lại những ngày tháng lịch sử đó. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp, ông đã tham gia bốn chiến dịch lớn: Chiến dịch Mậu Thân 1968, chiến dịch Đường 9 Nam Lào 1971, Chiến dịch mùa hè đỏ lửa 1972 và Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Ông đã đánh 67 trận, 26 tuổi được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và đến năm 40 tuổi được phong quân hàm Thiếu tướng.

Cuộc Đời Binh Nghiệp của Thượng Tướng Nguyễn Huy Hiệu

Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu sinh ra và lớn lên tại Hải Hậu, Nam Định. Năm 1965, khi vừa tròn 18 tuổi, ông đã theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc và lên đường nhập ngũ. Năm 1967, từ anh Binh nhì, ông đã phấn đấu lên tổ trưởng tổ ba người, đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua, Chiến sĩ Quyết thắng và chính thức được kết nạp vào Đảng ngay tại chiến hào.

Kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời quân ngũ của ông là được làm chiến sĩ Giải phóng quân để thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ “không có gì quý hơn độc lập tự do”, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Ông đã giữ vững lời thề của mình: “Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, suốt đời phấn đấu và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.”

Chiến Dịch Hồ Chí Minh và Vai Trò của Má Sáu Ngẫu

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu giữ cương vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27 thuộc Sư đoàn 320B, Quân đoàn 1. Nhiệm vụ của Trung đoàn 27 là đánh mũi thọc sâu từ cánh Bắc theo trục đường 13, chiếm cầu Vĩnh Bình, giải phóng Sài Gòn.

Ngày 18/3/1975, Trung đoàn 27 nhận lệnh hành quân bằng cơ giới từ Tam Điệp (Ninh Bình) vào Đông Hà (Quảng Trị), làm dự bị cho giải phóng Huế – Đà Nẵng. Tuy nhiên, khi Trung đoàn 27 vào tới Huế ngày 26/3, Huế đã được giải phóng. Ngày 29/3, ông cùng đồng đội tới bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng cũng đã được giải phóng. Trung đoàn được lệnh quay ra Đông Hà, hành quân theo đường Trường Sơn, tập kết tại Đồng Xoài, chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Trên đường hành quân tới đèo Ang Bun, đơn vị nhận được bức điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa! Táo bạo, táo bạo hơn nữa! Tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới miền Nam! Quyết chiến và toàn thắng!”. Lệnh truyền xuống, anh em dù mệt cũng bừng lên khí thế, tiến vào Bình Phước, sẵn sàng cho trận đánh cuối cùng.

Ngày 10/4/1975, Trung đoàn 27 đã có mặt ở Đồng Xoài thuộc tỉnh Phước Long (nay là tỉnh Bình Phước), cách địch khoảng 50km. Đến chiều 27/4/1975, Trung đoàn đã áp sát Tây Bắc Tân Uyên (tỉnh Bình Dương), phía sau là các đơn vị cơ giới thọc sâu. Hai ngày sau (đêm 29/4), khi Trung đoàn đến gần nghĩa địa của khu vực Búng (Bình Dương), Trung đoàn Trưởng Nguyễn Huy Hiệu và đồng đội thấy một ngôi nhà lụp xụp, trong nhà le lói ngọn đèn dầu, nhận định đây là cơ sở của ta nên tiến lại gần kiểm tra.

Tiếp cận ngôi nhà, họ phát tín hiệu 3 lần “Hồ Chí Minh” thì có người ở trong nhà đáp lại “muôn năm”. Nhận diện đúng mật khẩu, xác định đúng cơ sở của ta, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu cho trinh sát ở vòng ngoài bảo vệ, còn mình và anh Trịnh Minh Thư vào trong nhà. Tại đây, ông Hiệu và đồng đội được gặp má Huỳnh Thị Sáu (tên thường gọi là Sáu Ngẫu) – bà má miền Nam vốn là cơ sở cách mạng ở địa phương.

Má Sáu Ngẫu đã cung cấp cho Trung đoàn một tấm bản đồ Đô thành Sài Gòn (cũ) đã ghi các điểm địch phòng thủ. Má nói cách đây 5km có trại Huỳnh Văn Lương có khoảng gần 2.000 lính và tên Đại tá Hinh chỉ huy, sáng mai các con không cần đánh mà kêu hàng rồi nhanh chóng đánh qua quận lỵ Lái Thiêu; phải chiếm được cầu Vĩnh Bình, nếu không xe của các con sẽ không vào được nội đô.

Hành Trình Giải Phóng Sài Gòn

Từ tấm bản đồ và chỉ dẫn của má Sáu Ngẫu, Trung đoàn trưởng Nguyễn Huy Hiệu cùng các cán bộ trong đơn vị lập tức lên kế hoạch tiến vào Sài Gòn. Thời điểm đó quận lỵ Lái Thiêu là cửa ngõ của tuyến “tử thủ” cuối cùng của địch ở phía Bắc Sài Gòn. Do đó, trên một diện tích chưa đầy 4km2, chúng bố trí 3 tiểu đoàn bảo an, 2 chi đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn pháo binh và gần 2.000 quân trong trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương.

Sau khi xem xét các mặt mạnh, yếu của địch, Trung đoàn trưởng Nguyễn Huy Hiệu quyết định không đánh lần lượt từ ngoài vào trong mà tập trung lực lượng, kết hợp luồn sâu, ém sẵn và thọc sâu bằng cơ giới tiến công vượt qua Lái Thiêu từ 2 đầu.

4h30 ngày 30/4/1975, Trung đoàn 27 ra lệnh tiến công, một phát pháo hiệu bay vút lên không trung, các trận địa pháo đồng loạt nổ súng bắn vào khu địch. Từ những phút đầu, các chiến sĩ của Trung đoàn dùng bộc phá phá tung các lớp rào kẽm gai, thùng phuy chặn đường. Địch bị bất ngờ không kịp chống trả, nhiều tên bỏ chạy tán loạn.

Khi tiến công trên trục đường 13, đến ngã ba Lái Thiêu, ta bắn cháy 3 xe tăng và bắt sống 1 pháo 175 “vua chiến trường”. Tại trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương, sau ít phút nổ súng, địch đi thành hàng cầm vải trắng giơ cao xin hàng. Sau hơn 2 giờ chiến đấu, đến rạng sáng 30/4/1975, Trung đoàn 27 đã làm chủ quận lỵ Lái Thiêu. Tuyến “tử thủ” mà quân Ngụy đặt nhiều hy vọng sẽ chặn được các mũi tiến công của quân ta đã bị đập tan, cánh cửa phía Bắc Sài Gòn rộng mở.

Ngay sau đó, Trung đoàn 27 tổ chức lực lượng để chiếm đánh bằng được cầu Vĩnh Bình. 9h30 ngày 30/4/1975, Trung đoàn 27 và Trung đoàn bộ binh cơ giới 202 đến cầu Vĩnh Bình, cách Sài Gòn 10km. Tại cầu Vĩnh Bình, địch đang co cụm lại, có nhiều xe tăng, quân ta phải dùng pháo 37 ly đánh kìm đầu địch.

Lúc này, Thiếu úy Hoàng Thọ Mạc (Đại đội trưởng xe tăng) bị hỏng xe nên đã xuống chỉ huy B40, B41 bắn cháy 3 xe, các hỏa lực bắn kiềm chế địch. Sau đó, các đơn vị của ta đã chiếm được cầu Vĩnh Bình. Trong trận đánh tại cầu Vĩnh Bình, Thiếu úy Hoàng Thọ Mạc đã anh dũng hy sinh. “Lúc đó, tôi nói với các anh em đưa Thiếu úy Hoàng Thọ Mạc lên xe để cùng tiến vào Sài Gòn”, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu bùi ngùi kể.

Khi đường đã thông, đoàn quân ào ào tiến vào Sài Gòn. 10h, Trung đoàn 27 chiếm được Bộ Tư lệnh Thiết giáp quân ngụy và 13 căn cứ lục quân công xưởng, tiếp quản Tổng y viện Cộng hòa (nay là Bệnh viện 175). Sau đó, Trung đoàn bắt liên lạc với các đơn vị bạn để đánh tiếp mục tiêu trong nội thành Sài Gòn.

Kết Luận và Bài Học Lịch Sử

Ngày 30/4 lịch sử, khi quân địch tuyên bố đầu hàng, biển người đổ ra khắp các tuyến đường, phất cờ tung hô, mọi thứ như vỡ òa. Đấy là một mùa Xuân vui nhất, đẹp nhất của cả dân tộc. Giữ lời hứa, hôm sau ông Hiệu và đồng đội đã tổ chức về thăm và cảm ơn má Sáu Ngẫu cùng đồng bào. Dọc hai bên đường Lái Thiêu, đồng bào vẫy cờ hoa chào đón và tặng rất nhiều hoa trái.

Sau Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ông về Lạng Sơn tiếp tục học tập và sau đó nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội. Nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu nhấn mạnh, Đại thắng mùa Xuân năm 1975 không những ghi vào lịch sử dân tộc ta như mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX, mà còn là bài học kinh nghiệm quý báu về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Để đi đến thắng lợi to lớn và quyết định này, trước hết phải kể đến vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới, hội nhập sâu rộng quốc tế, tình hình an ninh, chính trị trong khu vực đang có những diễn biến phức tạp, chúng ta cần phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc để vượt qua mọi khó khăn.

Tinh thần của Việt Nam là gác lại quá khứ để hướng tới tương lai. Việt Nam theo đường lối ngoại giao độc lập – tự chủ, sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới. Các thế hệ phải hiểu, nắm rõ văn hóa, lịch sử của đất nước, đặc biệt là nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Tuổi trẻ phải làm chủ khoa học công nghệ, làm chủ vận mệnh chính là phải đáp ứng được yêu cầu hội nhập, làm chủ công nghệ hiện đại.

Chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử sẽ mãi mãi là động lực tinh thần to lớn để chúng ta kiên định, vững bước trên con đường mà Đảng và nhân dân ta đã chọn là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tiếp tục công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới.

Hãy cùng nhau học hỏi và tôn vinh những giá trị lịch sử để xây dựng một tương lai tươi sáng hơn cho đất nước.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *