Thông tin được thạc sĩ Lê Thị Hạ Quyên, khoa Phục hồi chức năng, Bệnh viện Phục hồi chức năng – Điều trị bệnh nghề nghiệp TPHCM, chia sẻ tại buổi sinh hoạt chuyên đề Phục hồi chức năng điều trị bệnh đột quỵ do Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tổ chức gần đây.
Bệnh nhân được tập phục hồi chức năng tại bệnh viện ở TPHCM (Ảnh: Hoàng Lê).
Thiếu hụt trầm trọng nhân lực phục hồi chức năng
Hiện nay, nguồn nhân lực phục hồi chức năng đang bị thiếu hụt nghiêm trọng. Tình trạng này cũng tồn tại ở TPHCM. Xét theo chuyên ngành, bác sĩ phục hồi chức năng là đối tượng quan trọng nhất cần được đào tạo nhưng lại thiếu hụt trầm trọng.
Theo bác sĩ Quyên, mỗi năm, Đại học Y Dược TPHCM chỉ tuyển khoảng 30 học viên, bao gồm chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 và nội trú. Chưa kể, số lượng này phải chia đều cho các tỉnh.
“Toàn TPHCM cũ chỉ có 47 bác sĩ phục hồi chức năng. Sự thiếu hụt bác sĩ dẫn đến tình trạng bảo hiểm y tế rất dễ xuất toán và nhiều bệnh viện không thể thành lập khoa phục hồi chức năng theo quy định”, bác sĩ Quyên chia sẻ.
Đối với kỹ thuật viên vật lý trị liệu, nguồn cung tương đối ổn định với khoảng 200 người ra trường mỗi năm. Đây là chuyên ngành duy nhất được đào tạo phổ biến trong nhiều thập kỷ.
Trong khi đó, kỹ thuật viên hoạt động trị liệu chỉ có Đại học Y Dược TPHCM đào tạo, với khoảng 30 cử nhân ra trường mỗi năm…
Bác sĩ Quyên cho hay, phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng là một chương trình đã được Bộ Y tế triển khai gần 30 năm, nhưng tại TPHCM, việc áp dụng gặp nhiều khó khăn do địa bàn rộng lớn và đặc thù đô thị.
Hiện nay, sau sáp nhập, TPHCM có 2 bệnh viện phục hồi chức năng (Bệnh viện Phục hồi chức năng Điều trị Bệnh nghề nghiệp và Bệnh viện Phục hồi chức năng Bình Dương).
TP đang đang hướng đến việc đưa phục hồi chức năng vào các trạm y tế, với mục tiêu mỗi trạm có một phòng hoặc khoa phục hồi chức năng. Sở Y tế TPHCM cũng dự kiến triển khai thí điểm phục hồi chức năng cộng đồng tại các khu vực có nhiều bệnh nhân đột quỵ.
Tại sao bệnh nhân đột quỵ cần làm phục hồi chức năng?
Đột quỵ là một tình trạng y tế nghiêm trọng, để lại nhiều di chứng và biến chứng nếu không được can thiệp kịp thời và đúng cách.
Đột quỵ để lại nhiều biến chứng nghiêm trọng liên quan đến vận động. Bệnh nhân thường bị yếu hoặc liệt nửa người, thậm chí liệt tứ chi trong các trường hợp nặng như xuất huyết não. Điều này khiến họ phụ thuộc vào người chăm sóc, khó thực hiện các hoạt động sinh hoạt cơ bản như đánh răng, ăn uống hay di chuyển.
Nhân viên y tế kiên trì tập phát âm phục hồi chức năng cho bệnh nhân (Ảnh: Hoàng Lê).
Một trong những biến chứng phổ biến là loét tì đè, xảy ra khi áp lực kéo dài gây tổn thương da và mô ở các vùng trên cơ thể. Teo cơ là một biến chứng khác, do bất động kéo dài hoặc suy dinh dưỡng, làm giảm số lượng và kích thước sợi cơ, gây khó khăn cho việc phục hồi.
Cứng khớp, thường gặp ở khớp khuỷu, gối và cổ chân, xảy ra khi các khớp không được co duỗi thường xuyên, có thể dẫn đến co rút gân gót nghiêm trọng, ảnh hưởng đến khả năng ngồi hoặc đi lại.
Huyết khối tĩnh mạch cũng là một nguy cơ lớn, khi máu ứ đọng ở chân do nằm liệt giường, có thể gây tắc mạch hoặc di chuyển lên phổi, tim, não.
Biến chứng về hô hấp, đặc biệt là viêm phổi, là một mối nguy lớn đối với bệnh nhân đột quỵ, nhất là những người cần thở máy, mở khí quản hoặc rối loạn nuốt dẫn đến sặc.
Rối loạn ngôn ngữ là một biến chứng khác, với các mức độ từ không nói được dù vẫn hiểu đến khó tìm từ hoặc diễn đạt mong muốn. Điều này khiến bệnh nhân khó giao tiếp, dễ bị cô lập khỏi cộng đồng.
Rối loạn cảm xúc cũng thường gặp ở bệnh nhân tỉnh táo, khi họ cảm thấy mất khả năng làm việc, giao tiếp, sinh hoạt, trở thành gánh nặng cho gia đình, dẫn đến lo âu, trầm cảm hoặc suy nghĩ tiêu cực.
Các biến chứng khác bao gồm suy dinh dưỡng do rối loạn nuốt, rối loạn tiêu tiểu như bí tiểu hoặc bí cầu, hạ huyết áp tư thế do nằm lâu và nguy cơ té ngã khi bệnh nhân bắt đầu di chuyển.
Nguy cơ tái phát đột quỵ cũng là một vấn đề lớn, đòi hỏi kiểm soát chặt chẽ huyết áp, đường huyết, mỡ máu, bỏ thuốc lá, rượu bia, duy trì hoạt động thể lực phù hợp và tuân thủ thuốc điều trị lâu dài.
Do đó, phục hồi chức năng là yếu tố then chốt để giảm thiểu biến chứng và cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân đột quỵ. Việc này cần được bắt đầu càng sớm càng tốt, khi tình trạng y khoa của bệnh nhân đã ổn định, thường trong 28-48 giờ đối với nhồi máu não và thận trọng hơn với xuất huyết não.
Các chương trình phục hồi chức năng cần được cá thể hóa dựa trên mức độ tổn thương, độ tuổi, bệnh nền và bệnh lý kèm theo, đòi hỏi sự phối hợp đa chuyên ngành giữa bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên vật lý trị liệu, hoạt động trị liệu, ngôn ngữ trị liệu, chuyên gia dinh dưỡng và nhân viên công tác xã hội… Gia đình cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và hỗ trợ bệnh nhân.
Theo thống kê của Bộ Y tế, Việt Nam là một trong những quốc gia có nhu cầu phục hồi chức năng lớn với khoảng 7% dân số từ 2 tuổi trở lên là người khuyết tật và 4 triệu người bị ảnh hưởng bởi chất độc hóa học.
Bên cạnh đó, dân số già hóa, mô hình bệnh tật, bệnh tim mạch, đột quỵ, bệnh tâm thần, đại dịch Covid-19… cũng làm gia tăng số người cần phục hồi chức năng.
Bộ Y tế đưa ra chỉ tiêu đến năm 2030, 90% các tỉnh thành triển khai mô hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng và nhân viên y tế làm việc trong lĩnh vực phục hồi chức năng đạt tối thiểu 0,5 người/10.000 dân.
Source link: https://dantri.com.vn/suc-khoe/tphcm-van-khat-bac-si-phuc-hoi-chuc-nang-20250823100646133.htm