Theo số liệu thống kê từ Box Office Vietnam, đến 22h ngày 28/9, doanh thu Mưa đỏ đạt 713,7 tỷ đồng. Đại diện trang này cho biết, vào khung giờ 22h hằng ngày, hệ thống hầu như đã quét hết lượng vé đặt trước, chỉ còn một phần nhỏ vé mua trực tiếp trong đêm nên doanh thu khó có biến động lớn.
Sang ngày 29/9, Box Office Vietnam sẽ có điều chỉnh số liệu, nhưng nhiều khả năng tổng doanh thu của Mưa đỏ không thay đổi đáng kể.
Trong ngày 28/9, Mưa đỏ ghi nhận doanh thu gần 5,8 tỷ đồng, tăng vọt so với những ngày trước đó. Không ít khán giả cho biết họ đã xem phim nhưng vẫn quay lại rạp lần nữa vì quá lưu luyến.
Trước đó, đạo diễn Đặng Thái Huyền và Điện ảnh Quân đội nhân dân xác nhận Mưa đỏ đã cán mốc 8,1 triệu vé.
Với doanh thu vượt mốc 710 tỷ đồng và 8,1 triệu lượt khán giả ra rạp, tác phẩm điện ảnh về đề tài chiến tranh của đạo diễn, NSƯT Đặng Thái Huyền không chỉ phá vỡ hàng loạt kỷ lục của phim Việt mà còn khơi dậy niềm tin mạnh mẽ vào tiềm năng của dòng phim lịch sử, chiến tranh.
Từ một dự án do Điện ảnh Quân đội nhân dân đầu tư, Mưa đỏ đã vượt ra khỏi khuôn khổ một tác phẩm nghệ thuật để trở thành hiện tượng văn hóa, khẳng định điện ảnh Việt hoàn toàn có thể chinh phục khán giả đại chúng.
Thành công này không chỉ là niềm tự hào nghệ thuật mà còn mở ra giấc mơ về một bộ phim chiến tranh Việt Nam đạt doanh thu 1.000 tỷ đồng – con số từng xa vời nhưng nay dần trở nên khả thi, khi Mưa đỏ đã tạo nên cú hích lớn và củng cố niềm tin của giới chuyên môn rằng mốc doanh thu kỷ lục ấy không còn là điều viển vông.
Dàn diễn viên phim “Mưa đỏ” tại một buổi giao lưu phim gần đây (Ảnh: Facebook nhân vật).
Những yếu tố cần và đủ để phim chiến tranh có được doanh thu 1.000 tỷ đồng
Chia sẻ với phóng viên Dân trí, PGS.TS Bùi Hoài Sơn – Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội – nhận định: “Từ bom tấn Mưa đỏ, giấc mơ về một bộ phim chiến tranh Việt Nam cán mốc doanh thu 1.000 tỷ đồng là hoàn toàn có cơ sở nếu chúng ta hội tụ được những yếu tố và nguồn lực cần thiết”.
Theo ông Sơn, yếu tố trước hết và quan trọng hàng đầu là kịch bản. Một bộ phim chỉ có thể tạo ra sức hút lâu dài khi câu chuyện của nó vừa chân thực, vừa nhân văn, vừa chạm đến trái tim khán giả hôm nay.
“Phim chiến tranh không thể chỉ dừng ở việc tái hiện những trận đánh với khói lửa, mà phải khắc họa số phận con người, tình đồng chí, nỗi mất mát, khát vọng hòa bình – những điều làm nên giá trị tinh thần bất biến”, chuyên gia văn hóa nhấn mạnh.
Thứ 2, kỹ thuật và công nghệ sản xuất phải được đầu tư đúng tầm. Khán giả Việt Nam ngày nay đã quen với bom tấn quốc tế, vì vậy muốn cạnh tranh, chúng ta phải tạo nên hình ảnh, âm thanh, kỹ xảo hiện đại, đủ sức đưa họ bước vào không gian điện ảnh vừa chân thực vừa hoành tráng.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn – Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội – chia sẻ với phóng viên Dân trí về hiện tượng “Mưa đỏ” (Ảnh: Dân trí).
Nhà đầu tư, chuyên gia truyền thông phim Ân Nguyễn cũng đồng tình, nhấn mạnh rằng, một bộ phim đạt mốc nghìn tỷ phải trở thành “phim quốc dân”, khơi dậy tinh thần yêu nước, tức chủ đề thu hút được đại đa số khán giả trong xã hội quan tâm.
Ông Ân Nguyễn khẳng định: “Người Việt Nam rất yêu nước, do đó tôi nghĩ các bộ phim khơi gợi được tinh thần này sẽ rất được yêu mến”.
Theo chuyên gia, yếu tố quan trọng nhất của phim phải là kịch bản chắc tay, như Mưa đỏ đã làm được nhờ khả năng của biên kịch nhà văn gạo cội Chu Lai.
Cục trưởng Cục Điện ảnh Đặng Trần Cường thẳng thắn chỉ ra hạn chế lớn nhất của dòng phim chiến tranh hiện nay nằm ở kịch bản chưa thực sự đa dạng, nhiều tác phẩm còn thiên về minh họa sự kiện mà thiếu đi chiều sâu khắc họa nhân vật.
Bên cạnh đó, yêu cầu về vốn đầu tư để làm phim chiến tranh là rất lớn, kỹ thuật và công nghệ sản xuất chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế khiến việc tái hiện bối cảnh và những cảnh chiến đấu chưa đạt đến độ thuyết phục cần có.
Cục trưởng Cục Điện ảnh nói: “Để dòng phim này có thể phát triển bền vững, chìa khóa nằm ở việc đầu tư nghiêm túc cho khâu biên kịch và nghiên cứu lịch sử, từ đó xây dựng những câu chuyện giàu tính nhân văn, gần gũi nhưng vẫn gợi cảm hứng mạnh mẽ cho khán giả.
Đồng thời, cần ứng dụng công nghệ điện ảnh hiện đại để nâng cao chất lượng hình ảnh và hiệu ứng thị giác để làm giảm giá thành trong sản xuất phim có đề tài về chiến tranh”.
Ông Nguyễn Khánh Dương, người sáng lập Box Office Vietnam (trang theo dõi thống kê doanh thu bán vé phim chiếu rạp) bày tỏ sự lạc quan khi đánh giá về tiềm năng thị trường.
Ông chia sẻ: “Bộ phim Mưa đỏ tạo ra những kỷ lục mới cho điện ảnh Việt, và tạo niềm tin của khán giả Việt Nam với phim Việt. Tôi tin tưởng trong tương lai, sẽ có những tác phẩm chạm tới con số 1.000 tỷ đồng”.
Theo người sáng lập Box Office Vietnam, để có thể đạt được mục tiêu này, cần nhiều yếu tố. Bên cạnh yếu tố quan trọng nhất là chất lượng nội dung, thì chiến lược phát hành ra rạp cũng quan trọng không kém.
Theo ông, đầu tiên là tính thời điểm. Bộ phim lập kỷ lục cần có kỳ nghỉ lễ đủ dài, để tích lũy doanh thu trong các ngày nghỉ.
Ông Dương cũng phân tích, thị trường điện ảnh Việt còn rất nhiều dư địa phát triển, với mốc 1.000 tỷ chỉ tương đương khoảng 10 triệu lượt khán giả – một con số hoàn toàn khả thi khi dân số nước ta vượt 100 triệu người.
Ông thậm chí còn kỳ vọng: “Với dân số hơn 100 triệu người, tôi nghĩ trong những năm tới, chúng ta có thể kỳ vọng và nhắm tới mục tiêu doanh thu nội địa 1 bộ phim chạm mốc 2.000 tỷ trong những năm tới”.
Hành trình “Mưa đỏ” đã khép lại với hơn 710 tỷ đồng doanh thu và hút 8,1 triệu lượt khán giả ra rạp (Ảnh: Facebook cá nhân đạo diễn Đặng Thái Huyền).
Cục trưởng Cục Điện ảnh Đặng Trần Cường cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của phát hành và mô hình phối hợp công – tư trong lĩnh vực điện ảnh, đặc biệt với phim chiến tranh.
Theo ông, Mưa đỏ là minh chứng điển hình: Nhờ hợp tác giữa Điện ảnh Quân đội nhân dân và đơn vị phát hành, phim không chỉ dừng lại ở phạm vi phục vụ nội bộ hay các kênh phổ biến truyền thống, mà còn được đưa đến đông đảo công chúng thông qua hệ thống rạp chiếu thương mại.
Nhờ đó, phim vừa hoàn thành nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền, giáo dục, vừa phát huy giá trị nghệ thuật, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ và đạt doanh thu ấn tượng.
Cục trưởng Cục Điện ảnh nhấn mạnh, việc hợp tác này mở ra hướng đi mới cho các tác phẩm điện ảnh nhiệm vụ chính trị, thay vì giới hạn trong phạm vi “phim đặt hàng” với cách phát hành khép kín, nay các bộ phim có thể hòa nhập với dòng chảy chung của thị trường, từ đó tăng cường sức hút, nâng cao tính hấp dẫn và tạo sự quan tâm tự nhiên từ khán giả.
Đây cũng là minh chứng cho sự chủ động, linh hoạt trong cách làm của Điện ảnh Quân Đội nhân dân, phù hợp với xu thế xã hội hóa, huy động nguồn lực xã hội cùng tham gia lan tỏa giá trị của phim chính trị – tư tưởng.
“Hiện dự thảo Nghị định về phát hành phim phục vụ nhiệm vụ chính trị vẫn đang được xây dựng, chưa ban hành. Vì vậy, sự phối hợp giữa Điện ảnh Quân đội và đơn vị phát hành được xem là bước đi tiên phong, vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn, vừa góp phần định hình cơ chế, chính sách cho tương lai.
Sự hợp tác này mang ý nghĩa nhiều mặt: Về chính trị – xã hội, đưa hình ảnh người lính, giá trị lịch sử và truyền thống cách mạng đến gần công chúng, nhất là giới trẻ; về kinh tế, chứng minh phim chính luận nếu đầu tư nghiêm túc vẫn có thể thắng lớn tại phòng vé; về chính sách, tạo cơ sở thực tiễn để hoàn thiện khung pháp lý và khuyến khích mô hình hợp tác công – tư trong điện ảnh nhiệm vụ chính trị”, Cục trưởng Đặng Trần Cường nói với phóng viên Dân trí.
Đạo diễn Nguyễn Hữu Tuấn – tác giả Báo cáo về ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam 2018 – 2019 (thực hiện với sự hỗ trợ của Trường Điện ảnh châu Á Busan) – nhận định: Để có một bộ phim 1.000 tỷ, yếu tố tiên quyết phụ thuộc vào sự phát triển chung của nền kinh tế – xã hội, trong đó điện ảnh chỉ là một bộ phận nhỏ.
Theo nam đạo diễn, hiện cả nước mới có khoảng 250 cụm rạp, nhiều địa phương lớn vẫn chưa có rạp chiếu, khiến khán giả muốn xem Mưa đỏ phải đi hàng chục, thậm chí hàng trăm cây số.
Hạ tầng chưa đáp ứng hết nhu cầu nên ngay cả những “hiện tượng phòng vé” như Mai hay Mưa đỏ cũng chỉ thu hút được 5-8 triệu khán giả. Một phim trăm tỷ đồng mới tiếp cận khoảng 1% dân số, trong khi để đạt mốc 1.000 tỷ cần tới 10%.
Ông dẫn chứng: Ở giai đoạn hoàng kim của thập kỷ trước, một bộ phim Hàn Quốc có thể kéo tới 20-25% dân số ra rạp. Khoảng cách về doanh thu điện ảnh giữa Việt Nam và Hàn Quốc phản ánh rõ sự chênh lệch về mức độ phát triển kinh tế – xã hội.
Đạo diễn Đặng Thái Huyền cùng với “Mưa đỏ” đã lập nên cú hích và niềm tin vào giấc mơ phim chiến tranh Việt Nam đạt doanh thu 1.000 tỷ đồng sớm thành hiện thực (Ảnh: Nguyễn Hà Nam).
Thách thức và chiến lược dài hạn
Đạo diễn, NSƯT Bùi Trung Hải chia sẻ rằng, trên phương diện quốc tế, nhiều bộ phim chiến tranh khai thác hiện thực trận đánh đã đạt thành công vang dội cả về nghệ thuật lẫn doanh thu. American Sniper (Clint Eastwood) năm 2014 thu về khoảng 550 triệu USD toàn cầu với chi phí chỉ 59 triệu USD và nhận nhiều đề cử Oscar.
Tương tự, Dunkirk (Christopher Nolan), 1917 (Sam Mendes), Darkest Hour (Joe Wright)… đều gặt hái thành công lớn, được vinh danh tại các giải thưởng hàng đầu như Oscar, BAFTA, và có doanh thu hàng trăm triệu USD, gấp nhiều lần kinh phí sản xuất.
Theo đạo diễn Bùi Trung Hải, điều này cho thấy tiềm năng to lớn của dòng phim chiến tranh – lịch sử, và điện ảnh Việt Nam cũng cần hòa nhịp với xu hướng chung ấy.
Tuy nhiên, đây là thể loại đặc biệt khó, đòi hỏi đầu tư tài chính khổng lồ, kế hoạch sản xuất chặt chẽ, sử dụng nhiều khí tài quân sự, bối cảnh hoành tráng và các trận đánh quy mô lớn. Mỗi cảnh quay vừa phải bảo đảm chân thực, vừa đạt yêu cầu nghệ thuật và an toàn cho diễn viên – một thách thức không dễ vượt qua với nhiều dự án.
Ông Hải cho rằng, tới Mưa đỏ, nhờ những nỗ lực đặc biệt của Bộ Quốc phòng, là nhà sản xuất của bộ phim, phim không những được phát hành rộng rãi, đồng thời có được sự liên kết, hợp đồng với các nhà phát hành phim tư nhân, nên đã được quảng cáo, truyền thông tốt ở mức tối đa.
“Điều đó cũng là tiền đề vững chắc cho thành công rất lớn về mặt doanh thu tại Việt Nam. Đây chắc chắn là một hướng đi đúng mà các nhà quản lý văn hóa, điện ảnh của Việt Nam cần phải suy nghĩ, nghiên cứu để thay đổi chính sách, mở đường cho sự phát triển của dòng phim chiến tranh, lịch sử trong tương lai”, ông Hải nói.
Với góc nhìn quản lý văn hóa, PGS.TS Bùi Hoài Sơn nhận định, thành công của Mưa đỏ không chỉ là niềm tự hào nghệ thuật mà còn mở ra hướng đi chiến lược cho điện ảnh Việt Nam.
Ông Sơn kiến nghị, thứ nhất, cần xây dựng chiến lược dài hạn cho dòng phim chiến tranh, không theo phong trào mà trở thành một nhánh quan trọng của công nghiệp điện ảnh. Điều này đòi hỏi sự phối hợp giữa quản lý, sản xuất và sáng tạo để bảo đảm tính kế thừa, đa dạng và bền vững.
Thứ 2, Nhà nước nên coi phim chiến tranh như một “di sản sống” – vừa lưu giữ ký ức dân tộc, vừa truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ. Do đó cần có chính sách khuyến khích đầu tư, cơ chế thông thoáng để huy động nguồn lực xã hội.
Thứ ba, phải mở rộng không gian tiếp cận: Đưa phim vào trường học, khu di tích, gắn với du lịch và sản phẩm văn hóa khác, biến điện ảnh thành cầu nối giữa ký ức và đời sống đương đại.
Một khâu then chốt là hệ thống rạp chiếu. Hiện thị trường phần lớn do các hệ thống tư nhân nước ngoài chi phối, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về suất chiếu giữa phim nội và phim ngoại.
Vì vậy, cần có chính sách phân bổ hợp lý, ưu tiên cho phim mang giá trị lịch sử – văn hóa, đồng thời đầu tư hoặc hỗ trợ xây dựng mạng lưới rạp công cộng ở các địa phương để mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tiếp cận.
Cuối cùng, phải chú trọng xây dựng đội ngũ nhân lực trẻ, có bản lĩnh và tri thức để tạo ra những tác phẩm lớn. Nếu đi theo hướng này, từ cú hích Mưa đỏ, điện ảnh chiến tranh Việt Nam hoàn toàn có thể hình thành “thương hiệu quốc gia”, góp phần khẳng định sức mạnh mềm và vị thế văn hóa Việt Nam trên bản đồ thế giới.
“Mưa đỏ” đã tạo nên một hiện tượng vô tiền khoáng hậu trong điện ảnh Việt (Ảnh: Đoàn phim cung cấp).
Trao đổi với phóng viên Dân trí, ông Đặng Trần Cuờng cho hay, ở góc độ quản lý, Cục Điện ảnh coi thành công của Mưa đỏ là một “cơ hội vàng” cần được chuyển hóa thành chiến lược cụ thể để bảo đảm dòng phim chiến tranh – cách mạng phát triển bền vững.
“Trước hết, dòng phim này tiếp tục nằm trong nhóm ưu tiên khi sử dụng ngân sách nhà nước, với định hướng đặt hàng và đầu tư chọn lọc, đồng thời khuyến khích xã hội hóa và hợp tác công – tư để huy động thêm nguồn lực sản xuất.
Song song với đó, Cục chú trọng khâu quảng bá và phát hành, nhằm đưa phim chiến tranh trở thành dòng chảy thường xuyên trong đời sống điện ảnh, thay vì chỉ xuất hiện vào các dịp kỷ niệm.
Đặc biệt, cần gắn kết chặt chẽ với giáo dục lịch sử, văn hóa và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới”, ông Cường nhấn mạnh.
Người đứng đầu Cục Điện ảnh tin tưởng rằng, với sự kết hợp đồng bộ giữa chính sách, nguồn lực và chiến lược phát triển, dòng phim chiến tranh, cách mạng sẽ không chỉ dừng ở hiện tượng, mà thực sự trở thành thế mạnh, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của điện ảnh Việt Nam như một ngành công nghiệp văn hóa mũi nhọn.
Source link: https://dantri.com.vn/giai-tri/tu-bom-tan-mua-do-den-giac-mo-phim-chien-tranh-1000-ty-dong-20250929080806505.htm