Hơn nửa thế kỷ kiến tạo “vũ khí” giúp cứu sống hàng ngàn trẻ em mỗi năm
Edward Jenner là người đầu tiên tìm ra vaccine đậu mùa vào năm 1796 (Ảnh: Getty Images).
Việc nhà khoa học Jenner phát minh ra vaccine là một thành tựu y học vĩ đại của nhân loại. Kể từ khi vaccine ra đời, loài người đã có được một loại “vũ khí” sắc bén nhất, hữu hiệu nhất để chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Về bản chất, việc tiêm chủng chính là sử dụng vaccine nhằm kích thích cơ thể sinh ra miễn dịch chủ động đặc hiệu để chống lại một bệnh truyền nhiễm nào đó.
Trong những năm qua, Việt Nam đã không ngừng triển khai hoàn thiện hệ thống tiêm chủng quốc gia, nhằm ngăn ngừa những bệnh dịch nguy hiểm. Hiện nay đã có khoảng 30 bệnh truyền nhiễm có thể dự phòng được bằng vaccine.
GS Hoàng Thủy Nguyên là người đặt nền móng cho ngành sản xuất vaccine Việt Nam. Thời điểm năm 1962, ngành y tế chưa có trung tâm kiểm định vaccine, vì thế để chứng minh tính an toàn của việc sử dụng vaccine Sabin, GS Nguyên đã cùng Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch khi đó, mỗi người uống tới 50 liều thử nghiệm mà vẫn an toàn.
Lịch sử vaccine Việt Nam bắt đầu từ năm 1962, với thành tựu sản xuất vaccine bại liệt sống giảm độc lực Sabin. Đây là kết quả của sự giúp đỡ từ các chuyên gia Liên Xô (cũ) và nỗ lực của GS Hoàng Thủy Nguyên, nguyên Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương. Trong bối cảnh chiến tranh và điều kiện y tế nghèo nàn, việc sản xuất vaccine trong nước là bước đột phá giúp cứu sống hàng ngàn trẻ em mỗi năm.
PGS.TS Dương Thị Hồng, Phó viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, chia sẻ, những năm 1959-1960, nước ta bùng phát dịch bại liệt lớn ở các tỉnh phía Bắc, 17.000 người mắc bệnh và 500 người tử vong. Mỗi năm hàng ngàn trẻ em bị di chứng bại liệt suốt đời, tỷ lệ mắc lên đến trên 126/100.000 dân.
Những năm 1959-1960, nước ta bùng phát dịch bại liệt lớn ở các tỉnh phía Bắc (Ảnh tư liệu).
Trong khoảng thời gian khó khăn đó, năm 1961, nhờ vaccine do Liên Xô (cũ) hỗ trợ, tỷ lệ mắc bại liệt ở nước ta đã giảm xuống còn 3,09/100.000 dân. Tuy nhiên, để chủ động phòng chống bại liệt, Bộ trưởng Y tế khi đó là Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã rất quyết tâm trong chỉ đạo để chủ động tự sản xuất vaccine.
Năm 1962, những lô vaccine phòng bại liệt “made-in Vietnam” đầu tiên chính thức xuất xưởng. Những năm sau đó, tỷ lệ người dân mắc bại liệt giảm rõ rệt. Từ năm 1990, tỷ lệ trẻ dưới một tuổi được uống đủ ba liều vaccine phòng bại liệt được duy trì trên 90%.
Nối tiếp thành công đó, Việt Nam dần chủ động sản xuất được nhiều loại vaccine như vaccine viêm gan B từ huyết tương người, vaccine viêm gan tái tổ hợp, vaccine viêm não Nhật Bản, vaccine tả uống, vaccine viêm gan A, vaccine sởi, vaccine bạch hầu, ho gà, uốn ván, vaccine Rota…
Công ty TNHH MTV Vắc xin và sinh phẩm số 1 (Vabiotech), với hơn 25 năm hình thành và phát triển, từ cái nôi nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong phòng chống bệnh truyền nhiễm của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương đến nay, Vabiotech đã trở thành một trong những công ty hàng đầu ở Việt Nam về lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất và kinh doanh vaccine và sinh phẩm dùng cho người.
Trong hành trang lịch sử của mình, công ty đã sản xuất thành công vaccine phòng bệnh tả, viêm não Nhật Bản, viêm gan B, viêm gan A. Đặc biệt trong đó vaccine viêm não Nhật Bản thế hệ 1 đã được tổ chức sản xuất thành công để đưa vào chương trình Tiêm chủng mở rộng từ năm 1997.
Điều này đã góp phần làm giảm tỷ lệ mắc viêm não Nhật Bản, giảm tỷ lệ tử vong và di chứng thần kinh, giảm gánh nặng bệnh tật cho người dân và xã hội. Đây cũng là vaccine đầu tiên của Việt Nam được xuất khẩu ra nước ngoài (4.490.000 liều sang Ấn Độ).
Hiện công ty có cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn theo WHO-GMP, đang sản xuất 4 loại vaccine gồm vaccine viêm gan A, vaccine viêm gan B, vaccine viêm não Nhật Bản và vaccine tả uống.
Như vậy, có thể nói, hiện nay Việt Nam là một trong rất ít nước tự sản xuất được vaccine sử dụng phòng chống dịch bệnh.
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương nhận định công tác tiêm chủng mở rộng được triển khai từ năm 1985 tại 100% xã, phường trong cả nước là một thành công rất lớn của Việt Nam. Qua đó, giúp giảm hàng trăm đến hàng nghìn lần số người nhiễm một số bệnh dịch như bạch hầu, ho gà, sởi… so với những năm trước khi có chương trình.
Thực hiện tiêm chủng miễn phí cho trẻ em và phụ nữ có thai với 12 loại vaccine với tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ luôn đạt ở mức cao trên 90% và từng bước đưa các vaccine mới vào trong Chương trình tiêm chủng mở rộng. Hiện nay, Việt Nam tự sản xuất được 10/12 loại vaccine góp phần giảm mắc hàng trăm đến hàng nghìn lần các bệnh có vaccine tiêm chủng và thanh toán, loại trừ một số bệnh truyền nhiễm.
Kết quả bệnh bại liệt được thanh toán vào năm 2000, uốn ván sơ sinh được loại trừ năm 2005. Việt Nam cũng đang tiến tới loại trừ sởi, viêm gan B ở trẻ dưới 5 tuổi và duy trì tỷ lệ tiêm chủng trên 95% trong nhiều năm.
Về an ninh vaccine, trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan xây dựng, trình Chính phủ quyết định các cơ chế về giá vaccine, tăng cường đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất vaccine trong nước. Điều này nhằm chủ động về công nghệ sản xuất và sản xuất vaccine cho Chương trình Tiêm chủng mở rộng cũng như vaccine đối với các dịch bệnh mới nổi, đảm bảo có đủ và kịp vaccine để bảo vệ người dân và cộng đồng.
Khi thế giới cần một “vũ khí” mới – cuộc chạy đua giữa đại dịch
Cuối năm 2019, khi những ca nhiễm virus SARS-CoV-2 đầu tiên trên thế giới được mô tả tại TP Vũ Hán, Trung Quốc, thế giới vẫn chưa hình dung hết sức tàn phá khủng khiếp mà nó gây ra. Chỉ trong vòng hai năm, đại dịch Covid-19 đã cướp đi sinh mạng của khoảng 7 triệu người và làm đảo lộn mọi lĩnh vực của đời sống toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, các quốc gia và hãng dược lớn bước vào cuộc đua phát triển vaccine chưa từng có tiền lệ. Với tốc độ phát triển khẩn trương, các loại vaccine đầu tiên đã ra đời chỉ sau vài tháng, song phần lớn đến từ những quốc gia có nền công nghiệp dược phẩm phát triển như Mỹ, Anh, Trung Quốc…
Việt Nam – dù đi sau – vẫn không nằm ngoài cuộc đua ấy. Với khát vọng chủ động nguồn cung và đảm bảo an ninh y tế quốc gia, các nhà khoa học trong nước đã bắt tay vào hành trình phát triển vaccine “made-in Vietnam”.
Là một trong 4 đơn vị nghiên cứu sản xuất vaccine Covid-19 ngay từ cuối năm 2020, Công ty TNHH MTV Vắc xin và sinh phẩm số 1 (Vabiotech) đã chọn hướng phát triển theo công nghệ mới là vector virus tái tổ hợp protein dựa trên nền tảng là virus Baculo, đây là virus không gây bệnh cho người, kháng nguyên SARS-CoV-2 được biểu hiện trên bề mặt virus Baculo.
Điều đặc biệt là công nghệ này còn là tiền đề để phát triển nhiều loại vaccine khác phòng bệnh cho người trong tương lai bằng cách gắn gen mã hóa kháng nguyên của tác nhân gây bệnh lên virus Baculo.
Bên cạnh đó còn kể đến vaccine tiểu thành phẩm của Nanogen (vaccine Nanocovax), vaccine khảm của Ivac (vaccine Covivax), vaccine saRNA của Vingroup (vaccine ARCT-154).
Vaccine khảm của Ivac cũng khá mới. Các nhà khoa học đem đoạn gai của virus cấy vào một virus khác, trong trường hợp này virus Newcastle là một virus gây bệnh ở gà, không gây bệnh ở người. Khi Ivac sử dụng công nghệ này, họ có thể sử dụng công nghệ hiện tại đang phát triển vaccine cúm.
Xuất khẩu vaccine – Từ giấc mơ thành hiện thực
Việt Nam xuất khẩu 4.449.000 liều vaccine viêm não Nhật Bản đầu tiên sang Ấn Độ và nay vaccine Công ty Vabiotech đã xuất đi một số nước khác như Đông Timor, Hàn Quốc, Myanmar…
Từ năm 2015, Việt Nam được WHO công nhận đạt chuẩn Hệ thống quản lý quốc gia về vaccine (NRA), chính thức gia nhập nhóm các quốc gia đủ điều kiện xuất khẩu vaccine.
Chỉ một năm sau, năm 2016, Việt Nam đã đánh dấu mốc quan trọng trên bản đồ các quốc gia sản xuất vaccine khi tự sản xuất được vaccine phối hợp phòng bệnh sởi – rubella (MR) chất lượng cao ứng dụng công nghệ Nhật Bản. Tại thời điểm này, Việt Nam là một trong 25 quốc gia sản xuất được vaccine trên thế giới và là nước thứ tư tại châu Á có thể sản xuất vaccine MR sau Nhật Bản, Ấn Độ và Trung Quốc.
Từ năm 2015, Việt Nam chính thức gia nhập nhóm các quốc gia đủ điều kiện xuất khẩu vaccine (Ảnh: CT).
Việc đưa vaccine MR 2 trong 1 phòng sởi – rubella của Việt Nam sản xuất vào Chương trình Tiêm chủng mở rộng giúp giảm chi phí khi phải nhập ngoại. Từ tháng 4/2018, vaccine MR do Việt Nam sản xuất được sử dụng trên quy mô toàn quốc cho trẻ từ 18 tháng tuổi trong tiêm chủng mở rộng.
Năm 2018 cũng đánh dấu thành tựu lớn tiếp theo của ngành y tế Việt Nam sản xuất thành công vaccine cúm mùa 3 trong 1 gồm cúm A/H1N1/09, A/H3N2, cúm B và vaccine cúm tiền đại dịch A/H5N1. Đây là loại vaccine cúm đầu tiên do Việt Nam sản xuất góp phần chủ động phòng chống dịch bệnh, giảm chi phí.
Một trong những thành tựu nổi bật của ngành y tế Việt Nam trong năm 2023 là Trung tâm Nghiên cứu sản xuất và sinh phẩm y tế (Polyvac) (Bộ Y tế) đã xuất khẩu thành công một triệu liều vaccine sởi MVVac đi Ấn Độ.
Trước đó, vaccine được chuyển giao công nghệ từ Nhật Bản và đưa vào sử dụng trong tiêm chủng mở rộng tại Việt Nam từ năm 2009. MVVac đang được sử dụng cả trong chương trình tiêm chủng mở rộng lẫn chương trình dịch vụ, tiêm cho trẻ từ 9 tháng tuổi.
Vabiotech cũng đã xuất khẩu hàng triệu liều vaccine như vaccine viêm não Nhật Bản, vaccine viêm gan A, vaccine tả uống sang các thị trường Ấn Độ, Philippines, Bangladesh, Đông Timor và Lebanon.
Tầm nhìn đến năm 2030 – Làm chủ 15 loại vaccine
Sự phát triển công nghệ vaccine dựa trên RNA thông tin (mRNA) đã mở ra một kỷ nguyên cách mạng trong lĩnh vực y tế (Ảnh: ST).
Việt Nam hiện có 4 doanh nghiệp nhà nước sản xuất vaccine, nhiều đơn vị tư nhân đạt chuẩn GMP và đã làm chủ các công nghệ sản xuất vaccine bất hoạt, giải độc tố, tiểu đơn vị…
Tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn chủ yếu sản xuất vaccine đơn giá, thiếu vaccine phối hợp và đầu tư nghiên cứu còn hạn chế. Để trở thành trung tâm sản xuất vaccine khu vực, Việt Nam cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, mở rộng cơ sở sản xuất và cải thiện chính sách tài chính, giá cả.
Chính phủ Việt Nam đã thông qua Chương trình bảo đảm nguồn cung vaccine đến năm 2030, đặt mục tiêu đến năm 2030, làm chủ được công nghệ sản xuất 15 loại vaccine; sản xuất được tối thiểu 5 loại vaccine; các vaccine sản xuất trong nước bảo đảm đạt tiêu chuẩn tương đương với tiêu chuẩn quốc tế.
Để hiện thực hóa mục tiêu, ngành y tế tập trung vào phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng nhà máy đạt chuẩn GMP, hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng vaccine theo WHO, tăng cường đầu tư nghiên cứu, chuyển giao công nghệ mRNA. Đại dịch Covid-19 đã mở ra kỷ nguyên mới cho công nghệ mRNA.
Covid-19 không chỉ là bài học về y tế, mà còn là lời cảnh tỉnh về chiến lược quốc gia. Không có vaccine, không có sức mạnh phòng chống dịch. Tự sản xuất vaccine không chỉ giúp Việt Nam phòng chống dịch bệnh hiệu quả mà còn khẳng định vị thế trên bản đồ công nghệ sinh học toàn cầu.
Source link: https://dantri.com.vn/suc-khoe/vaccine-made-in-vietnam-nhung-vien-gach-dau-tien-va-giac-mo-xuat-khau-20250429084730376.htm